
A
A A A!!阿 呵 呵!
A ha ha! Thán từ thường được dùng trong thiền ngữ. Tiết Lang Nha Vĩnh Khởi Thiền sư trong NĐHN q. 19 ghi: »師 上 堂、 良 久、 拊 掌 一 下 曰:阿 呵 呵!阿 呵 呵! 還 會 麼? 法 法 本 來法。 – Sư thượng đường lặng lẽ hồi lâu rồi vỗ tay một cái, nói: A ha ha! A ha ha! Có lãnh hội chăng? Hết thảy các pháp xưa nay vẫn là pháp«.
A DA HẠ HÀM 阿 爺 下 頷
Còn gọi: A gia hạ hàm. Vốn chỉ xương hàm dưới của cha. Hình dáng yên lừa giống như cây cầu, cho nên gọi là cầu yên. Đứa con ngu si khi đi tìm hài cốt của cha chết nơi chiến trường, nhận lầm cái cầu yên lừa cho là xương hàm dưới của cha mình, rồi cẩn thận mang về. Mẫu chuyện này về sau trở thành từ ngữ để mắng người ngu si, không phân biệt được chân, giả. Tắc 78, Thung Dung lục (Đại 48, 252 trung) ghi: »以 賊 爲 子、 認 奴 作 郎、破 沐 碏 豈 是 先 祖 骨 髏、 驢 鞍 橋 亦 非 阿 爺 下 頷。 – Nhận giặc là con, cho tớ là chủ. Nhận lầm cái gáo bể là đầu lâu của tổ tiên, cái cầu yên lừa là hàm dưới của cha mình«.
A GIA 婀 爺
Người cha. Tiếng gọi cha. Tiết Điểu Khòa Hòa thượng trong TĐT q.3 ghi: 師 問 白 舍 人 ﹕汝 是 白 家 兒 不 ? 舍 人 舍 稱 名 “ 白 居 易 ” 。 師 曰 : 汝 婀 爺 性 什 摩 ? 舍 人 無 對 。_ Sư hỏi quan Xá nhân họ Bạch: Ông có phải con nhà họ Bạch không? Xá nhân xưng tên là Bạch Cư Dị. Sư hỏi: Cha của ông họ gì? Quan Xá nhân không đáp được.
A GIÁC NỮ 丫角 女
Cô gái nhỏ tuổi. Chữ a (丫) còn đọc là nha có nghĩa là xòe ra thành hai góc. A giác chỉ tóc các cô gái còn nhỏ tuổi tết thành hai trái đào trông như hai cái sừng. Tiểu truyện Thiền sư Giác Hải trong TUTA ghi:
丫 角 女 頭 白。
報 儞 作 者 識
若 問 佛 境 界。
龍 門 遭 點 額
A giác nữ đầu bạch
Báo nhĩ tác giả thức
Nhược vấn Phật cảnh giới
Long môn tao điểm ngạch
»Bé gái đầu bạc phơ
Bảo khách thiền kiệt xuất
Cảnh giới Phật hỏi bàn
Long môn bị điểm trán«
A LỘC LỘC ĐỊA 阿 漉 漉 地
Chữ Lộc cũng viết 轆. 1. Trạng thái tự do tự tại. Tắc 53, Bích Nham lục q. 6 ghi: »我 適 來 哭、如 今 却 笑、 看 他 悟 後、 阿 漉 漉 地、 羅 籠 不 住、 自 然 玲 瓏。 – ›Vừa rồi tôi khóc, bây giờ lại cười‹. Xem ông ta (Bách Trượng) sau khi ngộ tự do tự tại, không ai khống chế được, tự nhiên linh hoạt«. Theo: PQĐTĐ của nhóm Từ Di.
2. Trạng thái mềm và ướt, dùng để hình dung thiền tăng căn cơ chậm lụt. Tiết Bảo Phong Khắc Văn Thiền sư trong NĐHN q. 17 ghi: »馬 祖 下 尊 宿、 一 箇 箇 阿 漉 漉 地、 唯 有 歸 宗 老 較 些 子。 – Các vị tôn túc môn hạ Mã Tổ, ai nấy cũng chậm lụt, chỉ có Quy Tông là khá hơn một chút«. Theo: TTTĐ của nhóm Viên Tân.
A SƯ 阿 師
Tiếng thân thiết để gọi một vị tăng. A là phát ngữ từ (từ đầu). Tiết Đạo Nhất, đời thứ 2 dưới Đại Giám trong CTTNL q. 1 ghi: »師 曰: 這 鈍 根 阿 師。 – Sư bảo: Cái ông tăng chậm lụt này!«
A THỈ TỐNG NIỆU 屙 屎 送 尿
Khi đi tiêu gọi là a thỉ, đi tiểu gọi là tống niệu. Lâm Tế Huệ Chiếu Thiền sư ngữ lục (Đại 47, 458 thượng) ghi: »屙 屎 送 尿、 著 衣 喫 飯、 困 來 即 臥、 愚 人 笑 我、 智 乃 知 焉。 – Đi tiêu đi tiểu, mặc áo ăn cơm, mệt mỏi thì nằm nghỉ, kẻ ngu cười ta, người trí biết ta«.
Đây là thuật ngữ thường dùng trong nhà Thiền để biểu thị mọi sinh hoạt hàng ngày đều là việc làm của Phật, hạnh của Phật. Lâm Gian lục, q. thượng (Vạn Tục 148, 301 thượng) ghi: »慈 明 呵 曰: 著 衣 喫 飯、 不 是 畢 竟、 屙 屎 送 尿、 不 是 畢 竟。 – Từ Minh mắng rằng: Mặc áo ăn cơm chẳng phải là cứu cánh, đi tiêu đi tiểu chẳng phải là cứu cánh«.
Á 啞
1. Thuật ngữ này được dùng trong trường hợp người học tuy muốn biểu hiện sở đắc của riêng mình, nhưng khi ấy tận cùng ngôn ngữ cũng không cách gì biểu đạt; hoặc là thuật ngữ dùng để biểu thị chân lý Phật pháp mà không dùng lời nói. Phần Khám Biện trong Lâm Tế lục (Đại 47, 504 thượng) ghi: »師 問 杏 山: 如 何 是 露 地 白 牛? 山云: 吽 吽。 師 云: 啞 那。 – Sư hỏi Hạnh Sơn: ›Thế nào là con trâu trắng sờ sờ?‹ Sơn đáp: ›Hồng! Hồng!‹ Sư nói: ›Á‹«.
2. Biểu thị tiếng cười, tiếng quạ kêu, còn gọi: Á á. Tắc 14, Bích Nham lục (Đại 48, l54 hạ) ghi: »閻 浮 樹 下 笑 呵 呵、 昨 夜 驪 龍 拗 角 折 (非 止 驪 龍 拗 折、 有 誰 見 來? 還 有 證明 麼? 啞!)。 – Dưới cội Diêm Phù cười ha hả, đêm trước rồng đen bị gãy sừng. (Chẳng phải cấm rồng đen gãy sừng, có ai thấy chăng? Có chứng minh được chăng? Á!)«.
Á (HỌA) 㘞
Chỉ cho tiếng kéo thuyền hoặc tiếng la lên khi tìm được món đồ rơi mất. Trong nhà Thiền dùng để chỉ tiếng »À« khi hốt nhiên đại ngộ. Điều Trường Sa Cảnh Sầm trong Thiền tông Cổ Tụng Liên Châu Thông tập q. 16 (Vạn Tục 115, 96 hạ) ghi: »你 作 麼 生 用? 師 拍 胸 與 一 踏。 山 曰:㘞
。 – Ông dùng như thế nào?‹ Sư thộp ngực đạp cho một đạp. Sơn nói: ›À!‹«.
Thiền Quan Sách Tiến (Đại 48, 1099 hạ) ghi: »首 座 入 堂 燒 香、 打 香 匣 作 聲、 忽 然 㘞 地 一 聲、 識 得 自 己。 – Vị Thủ tọa lên thiền đường thắp nhang, khua hộp nhang phát ra tiếng, thình lình ông ›à‹ lên một tiếng, biết ra được chính mình.«
Á TỬ ĐẮC MỘNG 啞 子 得 夢
Còn gọi: Á tử khiết hoàng liên, Á tử khiết khổ qua, lãnh noãn tự tri. Vốn có nghĩa là người câm chẳng thể đem cảnh chiêm bao của mình kể cho người khác nghe. Thiền tông dùng thuật ngữ này để chỉ cho cảnh giới thể ngộ của người học, cảnh giới này không thể dùng lời nói để nói với kẻ khác.
Trong Vô Môn Quan, Thiền sư Vô Môn phê bình rằng (Đại 48, 293 thượng): »參 箇 無 字、 晝 夜 提 撕、 莫 作 虛 無 會、 莫 作 有 無 會。 如 吞 了 箇 熱 鐵 丸 相 似。 吐 又 吐 不 出、 蕩 盡 從 前 惡 知 惡 覺、 久 久 純熟。 自 然 內 外、 打 成 一 片。 如 啞 子 得 夢 只 許 自 知。 – Hãy tham chữ Vô, ngày đêm đề khởi, chớ có hiểu như hư vô, chớ có hiểu như hữu vô, giống như người nuốt phải một hoàn sắt nóng muốn mửa ra cũng chẳng được. Quét sạch các ác tri ác giác từ trước, lâu ngày thuần thục, tự nhiên trong ngoài kết thành một khối, như người câm nằm mộng, chỉ tự biết mà thôi«.
Bởi vì đây là biểu thị lấy tâm truyền tâm, ý thức và lời nói chẳng đạt đến được.
Á TỬ MỘNG THIỀN 啞 夢 禪
Thiền pháp của người câm nằm mộng. Chẳng hạn như tham cứu chữ “vô”, ngày đêm đề khởi, không thuộc về hữu vô, cũng không thuộc về hư vô, như nuốt một hoàn sắt nóng, nuốt cũng chẳng vào, nhả cũng chẳng ra. Quét sạch mọi ác tri ác kiến từ trước, lâu ngày thuần thục tự nhiên trong ngoài kết thành một khối, bỗng đại ngộ, giống như người câm chợt tỉnh được giấc mộng ngàn năm. Cảnh thánh chỉ tự mình biết không thể nói cùng người nên gọi là á mộng thiền.
ÁC THỦ ĐOẠN 惡 手段
Chỉ thủ thuật hiểm ác, dữ dội của thiền sư cao minh khi tiếp dẫn người học. Khai thị thiền nhân Bỉnh trong MANL ghi: »直 是 撥 草 瞻 風。 覓 箇 咬 豬 狗 惡 手 段 與 他 做 冤 家,眉 毛 厮 結 禁 得 惡 拳 趯 吃 得 沒 滋 味,大 爐 鞲 中,天 鍛 萬 煉。 徹 底 淨 盡 跳 得 出。– Quả tình trèo non lội suối đi tìm bậc thiền sư cao minh, sẽ cùng ông ta gây oán thù hoặc là thâm sâu giao kết, chịu đựng được những trận đòn rất ác, chịu nổi cái vô vị trong lò rèn lớn, trui qua luyện lại ngàn muôn lần, hết sức sạch sẽ thì mới nhảy ra được.«
AI TẠT 挨 拶
»Ai« là đẩy mạnh, »Tạt« nghĩa là đẩy. Thiền tông dùng từ này để chỉ cho việc dùng ngôn ngữ và động tác nặng nhẹ để thử nghiệm lẫn nhau giữa Thiền sư và người học đạo. Phần lời dẫn trong tắc 23 của Bích Nham lục q. 3 (Đại 48, 164 thượng) ghi: »玉 將 火 試、 金 將 石 試、 劎 將 毛 試、 水 將 杖 試。 至 於 衲 僧 門 下、 一 言 一 句、 一 機 一 境、 一 出 一 入、 一 挨 一 拶、 要 見 深 淺、 要 見 向 背。 且 道: 將 什 麼? 試 請 擧 看。 – Lấy lửa thử ngọc, lấy đá thử vàng, dùng lông thử kiếm, dùng gậy dò nước. Còn như đối với thiền tăng dùng một lời một câu, một cơ một cảnh, một ra một vào, một xô một đẩy, muốn thấy sâu cạn, mặt trái mặt phải của y thì phải lấy cái gì để khám nghiệm đây? Xin thử nêu ra xem!«
Phần giải thích cũng trong tắc này (Đại 48, 164 trung) ghi: »保 福、 長 慶、 鏡 清 總 承 嗣 雪 峯、 他 三 人 同 得 同 證、 同 見 同 聞、 同 拈 同 用。 一 出 一 入、 逓 相 挨 拶。 – Bảo Phúc, Trường Khánh, Cảnh Thanh đều là những vị kế thừa Tuyết Phong. Ba người đồng đắc đồng chứng, đồng kiến đồng văn, đồng niêm đồng dụng, một ra một vào thay nhau khám nghiệm«.
ÁI TRƯỚC 藹 著
Nổi bật, vẻ vang (thanh danh). Tiết Sở Thạch Hòa thượng hành trạng trong PKNL q. 20 ghi: »是 時 (梵 琦) 文 采 炳 蔚、 聲 光 藹 著、 兩 浙 名 山 宿 德 爭 欲 招 致 座 下。 – Khi ấy (Phạm Kỳ) phong thái sáng rực, tiếng tăm vẻ vang, những bậc thiền đức của các danh sơn ở vùng Lưỡng Chiết tranh nhau muốn thu nhận sư về dưới tòa mình.«
ẢI TỬ KHÁN HÝ, TÙY NHÂN THƯỢNG HẠ 矮 子 看 戲 隨 人 上 下
Người lùn đi xem hát, chẳng trông thấy gì nhưng cũng bắt chước người khác vỗ tay tán thưởng, dụ chỉ người tu thiền pháp nhãn chẳng sáng, chỉ làm theo người khác một cách máy móc, còn bị người ta khống chế. Pháp Diễn ngữ lục q. trung ghi: »忽 有 箇 出 來 道。 長 老 爾 恁 麼 道 也。 則 白 雲 萬 里。 者 箇 說 話。 喚 作 矮 子 看 戲。隨 人 上 下。 三 十 年 後 一 場 好 笑。且 道 笑 箇 什 麼? 笑 白 雲 萬 里。 – Chợt có một vị tăng bước ra nói: Thưa trưởng lão, ông nói thế ấy cũng là mây trắng muôn dặm! Lời nói này còn gọi là người lùn đi xem hát, chẳng trông thấy gì nhưng cũng bắt chước người khác vỗ tay tán thưởng, ba mươi năm sau vẫn còn buồn cười mãi. Thử hỏi cười cái gì? Cười mây trắng muôn dặm«.
AM 庵、菴
Ngôi nhà nhỏ để thờ Phật, thường có một hai vị tăng ở ẩn tu. Từ kết hợp đứng sau danh từ để tạo thành tên gọi chỗ ở của các Thiền sư như: Bạch Am, Chỉ Am, Dị Am, Hoặc Am.
AM TRUNG BẤT TỬ NHÂN庵 中不死人
Người bất tử trong am, dụ cho Phật tánh sẳn có của mọi người. Am là dụ cho nhục thân, bất tử nhân dụ cho Phật tánh. CĐTĐL q.30 ghi:
欲 識 庵 中 不 死 人
豈 離 而 今 遮 皮 袋
Muốn biết trong am người bất tử,
Lẽ nào rời túi da ngăn che này?
ÁM CHỨNG THIỀN SƯ 暗 證 禪 師
Còn gọi: Manh thiền giả, Ám thiền Tỳ kheo. Là lời chế giễu thiền giả của các tông phái ngoài Thiền tông như Giáo môn chẳng hạn, nhất là chỉ các vị thiền sinh ưa chấp trước thiền định, không nghiên cứu giáo pháp, hiểu biết lờ mờ, lại kiêu mạn tự cho mình là đúng.
ÁM ĐẦU 暗 頭
Trong bóng tối, chỗ tối tăm. Tiết Trấn Châu Phổ Hóa Hòa thượng trong NĐHN q. 4 ghi: »於 北 地 行 化、 或 城 巿、 或 塚 間、 振 一 鐸 曰: 明 頭 來、 明 頭 打。 暗 頭 來、 暗 頭 打。 四 方 八 面 來、 旋 風 打、 虛 空 來、 連 架 打。 – Sư hành hóa ở đất Bắc, hoặc là chốn thành thị, hoặc là nơi gò mả, lắc một cái linh nói: Chỗ sáng đến thì đánh bên chỗ sáng, chỗ tối đến thì đánh bên chỗ tối, tám mặt đến thì xoay vần mà đánh, hư không đến thì đánh cả hư không«.
AN LẠC ĐƯỜNG 安 樂 堂
Nhà để dành riêng cho các vị tăng già yếu trong các chùa thời xưa.
AN LÃO 安老
Có ba nghĩa:
1. Liêu phòng của những vị tăng già cả hoặc những vị nhập thất ở trong phạm vi thiền viện. Những người ở liêu phòng, nếu đã bảy tám mươi tuổi thì được miễn trừ mọi công việc hàng ngày, thức ăn uống được cung cấp đầy đủ
2. Chỗ ở của những vị tăng lớn tuổi, thân thể suy nhược.
3. Người tuy đã già nhưng phát đạo tâm tu hành trong Tăng đường cũng gọi là an lão.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
AN TÂM 安 心
Có ý, cố tình. Hám Sơn Lão Nhân Mộng Du tập, q. 2 ghi: »若 安 心 先 求 妙 果、 即 希 求 之 心 便 是 生 死 根 本 碍 正 知 見。 – Nếu cố tình trước cầu diệu quả, tức có tâm mong cầu chính là cội rễ sinh tử, chướng ngại chính tri kiến.«
AN TÂM LẬP MẠNG 安 心 立命
Hết lòng vì nhân gian mà hành đạo và tùy thuận mạng trời mà an tâm, không bị tất cả những sự vật bên ngoài làm dao động.
Lập mạng vốn là dụng ngữ của Nho gia. Thiên “Vi chính” trong Luận ngữ ghi: Ba mươi tuổi biết tự lập, bốn mươi tuổi chẳng nghi hoặc, năm mươi tuổi biết mạng trời.
Thiên “Tận tâm” trong Mạnh Tử cũng đề ra: Dù sống lâu hay chết yểu cũng không hai lòng, chỉ tu thân để đợi mạng trời, đó là cách lập mạng.
Những câu vừa dẫn trên đều hàm ý tu thân dưỡng tánh, hành theo mạng trời, không bị vật bên ngoài làm dao động, sai sử. Về sau, thuật ngữ này được Phật giáo mượn dùng để chỉ cho việc an tâm của chính mình.
TMMBTSTL q. trung ghi: 欲四大分散時向何處安心立命?Khi tứ đại phân tán thì an thân lập mạng vào đâu?
AN THIỀN 安 禪
Còn gọi: An tâm pháp môn, An lạc pháp môn.
An trụ tọa thiền. Nếu nhờ an trụ tọa thiền mà tâm bình lặng thì gọi là an thiền tĩnh lự
CĐTĐL q. 28 ghi: . »拔 生 死深 根 獲 見 前 三 昧 ,若 不安 禪 靜 慮,到 遮 裏 總 須 茫 然
。 –Nhổ rễ sâu sanh tử, được tam muội hiện tiền ; nếu không an thiền tĩnh lự, đến chỗ này hẳn đều mờ mịt.
Ngoài ra lúc tọa thiền hành giả không bị hoàn cảnh chi phối, nhất tâm tự tại vô ngại, không cần phải ở nơi khe suối nhàn tĩnh, cũng gọi là an thiền. BNL tắc 43 ghi:
安 禪 不 必須 山 水,
滅 卻 心 頭火 自 涼
An thiền đâu cần nơi sông núi, Nếu hết lửa phiền tâm mát tươi.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
AN TÒA安 座
An trí tượng Phật nơi chính điện.
Bất luận là tượng Phật mới hay cũ, hễ khi thờ tượng Phật trong điện thì phải thỉnh vị tôn sư khai thị pháp ngữ để an tòa, nghi thức này gọi là an tòa Phật sự. Nếu tượng Phật mới chưa khai quang điểm nhãn thì được tổ chức an tòa Phật sự cùng một lúc, vì trong pháp ngữ lúc an tòa, có đủ cả hai ý nghĩa này. Tuy khai quang điểm nhãn và tổ chức an tòa cùng một lúc, nhưng cà hai nghi thức ấy cùng thỉnh một vị thầy mà thôi.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
AN TRƯỚC 安 著
Sắp đặt, xếp gọn. Duy Tắc ngữ lục q. 2 ghi: »十 方 空 索 索、 全 體 露 堂 堂、 貪 瞋 癡 從 那 里 得 來?戒 定 慧 向 何 處 安 著。 – Mười phương trống hoang hoác, toàn thể bày rõ ràng, tham sân si từ nơi đâu đến được? Giới định huệ nhằm chỗ nào sắp đặt?«.
AN Ý 安 意
Yên lòng, yên trí, yên tâm. Nguyên Hiền quảng lục q. 30 ghi: »人 之 常 情 喜 自 便 而 畏 檢 束、 則 又 不 肯 安 意 於 此、 故 律 學 之 最 易、 却 成 最 難 也。 – Lẽ thường tình của con người là thích buông lung mà sợ kiềm chế, lại còn chẳng chịu yên lòng ở đây, nên luật học vốn rất dễ trái lại trở thành rất khó.«
ÁN ĐÂU 案 頭
Cái bàn dài sử dụng khi chúng tăng xem đọc kinh luận hoặc uống trà trong các liêu của tự viện Thiền tông. Giờ nghỉ ngơi sau khi tham thiền, đại chúng trở về các liêu, đến bàn dài ngồi đối diện nhau uống trà. Trên bàn dài trong liêu, không được an trí tượng Phật, Bồ tát để tránh tội bất kính.
Theo: PQĐTĐ nhómTừ Di.
ÁN HẮC ĐẬU 唵 黑 豆
Án: ăn cơm bốc (tay) hoặc ngậm cơm trong miệng. Hắc Đậu: đậu đen, chỉ cho văn tự. Thiền tông dùng từ này để trách người chỉ căn cứ vào văn tự của kinh điển để lý giải mà lơ là chân ý bao hàm bên trong.
ÁN VỊ SÀNG TRƯỚNG按位 床 帳
Giăng mùng trên đơn của mỗi người trong Tăng đường để ngủ.
Vị, còn gọi là bị vị, tức trong phòng liêu mỗi người đều có chiếu ngồi. sàng trướng là mùng của chúng tăng. Phần Duy-na, TUTQ q.3 ghi:堂司竝 供 頭 行 者,備 辨 寮 舍門 戶 牕 牖,按 位 牀 帳,動用什物。Duy-na cùng Cung đầu hành giả phải trông nom cửa ngõ, cửa sổ, sắp đặt phòng xá, chuẩn bị chiếu, giường màn và các đồ vật lặt vặt thường dùng.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
ANH VŨ THIỀN 鸚 鵡 禪
Thiền con két. Thiền tông dùng từ này để chỉ người học đạo chẳng rõ thiền ý chỉ học vài câu cơ phong chuyển ngữ thuộc lòng lưu loát giống như con két, gặp người liền nói, gặp Phật cũng ca ngợi, như nói: „Tâm ông là Phật, tánh ông là pháp, Phật pháp không hai tức là tăng bảo đâu cần cầu bên ngoài? Bất tức bất ly là ý Tổ sư vốn không nhọc công tu chứng“.
Suốt ngày thường nói như thế khiến người khác không muốn nghe. Nếu người hỏi vặn: „Thế nào là Phật?“ liền nhướng mày chớp mắt không lời để đối đáp.
ẢNH ĐƯỜNG 影 堂
Còn gọi: Tổ đường, Tổ điện, Đại sư đường, Khai sơn đường.
Chỉ ngôi nhà đặt ảnh tượng các tổ sáng lập tông phái hoặc các bậc cao tăng, ngày xưa ảnh đường là nơi người dân Trung Quốc thờ phụng tổ tiên. Về sau, Phật giáo mượn hai chữ này để chỉ ngôi điện đường an trí di tượng của tổ sư.
Theo Tống Cao Tăng Truyện q. 25, tại Trường An có thiết lập ảnh đường của đại sư Thiện Đạo đời Đường.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
ẢO KHÚC TÁC TRỰC 拗 曲 作 值
Từ trước vốn cong queo, nay muốn uốn lại cho thẳng; ý chỉ bày vẽ lắm việc. Đây là lời nói hàm ý chê bai. Pháp Diễn ngữ lục q. thượng ghi: »臨 濟 入 門 便 喝、 是 甚 碗 鳴 聲? 德 山 入 門 便 棒、 拗 曲 作 直、 雲 門 三 句、 曹 洞 五 位、 大 開 眼 了 作 梦。 – Vào cửa Lâm Tế liền bị hét, là tiếng khua bát? Vào cửa Đức Sơn liền bị đánh cũng là bày vẽ lắm việc; Vân Môn tam cú, Tào Động ngũ vị cũng là mở to mắt mà nằm mộng«.
ÁP LƯƠNG VI TIỆN 壓 良 爲 賤
Còn gọi: Yếm lương vi tiện. Ép tốt thành xấu. Thiền tông dùng cụm từ này dụ cho việc chẳng có thể giúp cho người học chân tham thật ngộ mà còn khiến cho họ tu hành tạp hạnh của phàm phu. Tắc 6, Vô Môn Quan (Đại 48, 293 hạ) ghi: »黃 面 瞿 曇 傍 若 無 人、 壓 良 爲 賤、 懸 羊 頭、 賣 狗 肉、 將 謂 多 少 奇 特。 – Lão Cồ-đàm mặt vàng không coi ai ra chi, ép tốt thành xấu, treo đầu dê bán thịt chó, tưởng đâu là hay lắm!«.
ÁP TANG 押 喪
Vị giữ trật tự đi ở cuối đám tang. Trong thiền lâm, chức vụ này thông thường do đô tự đảm nhiệm. Điều Thiên hóa, STBTTQ q.3 ghi: 臨 濟 都 寺押 喪,喪 司、維 那、知客、聖 僧 侍 者 俵 行 喪 襯Áp tang đô tự, tang ty, duy-na, tri khách và thị giả của thánh tăng thì phân phối vật bố thí cho chư tăng, sau khi đám ma hoàn tất.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
ÁT NẠI 遏 捺
Ngăn cản, đè nén. Thư Đáp Trịnh Côn Nham Trung thừa trong HSLNMDT q. 1 ghi: »盖 虛 妄 浮 心、 本 無 根 緒、 切 不 可 當 作 實 事、 橫 在 胸 中、 起 時 便 咄、 一 咄 便 消、 切 不 可 遏 捺、 則 隨 他 使 作、 如 水 上 葫 蘆。 – Bởi vì tâm trôi nổi hư vọng vốn không có gốc gác, nhất định ôm giữ chẳng nên chấp nó là có thật, chất chứa trong lòng. Lúc nó khởi lên liền quở, quở nó liền tiêu mất. Nhất định chớ nên đè nén, cứ theo dõi nó một cách tự nhiên như quan sát trái bầu nổi trên mặt nước«.
ẤN CHỨNG 印 證 = TRUYỀN TÂM ẤN 傳 心 印
Ấn là con dấu, chứng là chứng nhận. Tâm của trò đã ngộ rồi mới nhờ tâm của bậc thầy kiến tính giám định, chứng minh cho, giống như việc dùng con dấu đóng vào giấy tờ để xác nhận nội dung thật sự của giấy tờ ấy. Tiết Hoa Tạng An Dân Thiền sư trong NĐHN q. 19 ghi: »偶 僧 請 益 十 玄 談、 方 擧 問: 君 心 印 作 何 顏? 悟 (指 圓 悟 和 尚) 厲 聲 曰: 文 采 已 彰。 師 聞 之 有 省。 遂 求 印 證。 – Bỗng gặp vị tăng thưa hỏi về Thập huyền đàm, sư mới nhân đó đặt câu hỏi: ›Tâm ấn của Ngài có tướng mạo gì?‹ Viên Ngộ gằn giọng, nói: ›Văn vẻ đã bày‹. Sư nghe qua liền có tỉnh nên cầu Viên Ngộ ấn chứng«.
ẤN KHẢ 印 可
Thiền sư chứng minh và thừa nhận chỗ NGỘ của người học thiền là đúng.
ẤN TIỀN KHÔI KHUẾCH 印 前 恢 廓
Trước máy in rộng lớn. Thiền tông dùng cụm từ này để chỉ cho cảnh giới khoáng đạt của tự tâm, vượt ngoài ngôn ngữ văn tự. Tắc 44, Thung Dung lục (Đại 48, 285 hạ) ghi: »機 底 聯 綿 兮、 自 有 金 針 玉 線; 印 前 恢 廓 兮、 元 無 鳥 蒃 蟲 文。 – Dưới khung cửi dày đặc, tự có kim vàng (chỉ ngọc). Trước máy in rộng lớn, vốn không có văn tự ngữ ngôn«.
B
BA TRA 波 吒
Nguy nan, khốn đốn. Từ dịch âm tiếng Phạn. Pháp Diễn ngữ lục q. thượng: »莫 問 新 婦 阿家、 免 煩 路 上 波 吒。 – Chớ hỏi bà mẹ chồng nàng dâu, khỏi phiền trên đường phải khốn đốn «.
BA TRUNG THỦ NGUYỆT 波 中 取 月
Còn gọi: Ba trung tróc nguyệt 波 中 捉 月. Mò trăng nơi sóng nước; dụ chỉ hành vi hư vọng, nhọc công. Tiết Ấu Chương Thiền sư trong CĐTĐL q. 20 ghi: »若 是 學 語 之 輩、 不 自 省 己 知 非、 直 欲 向 空 裏 采 花、 波 中 取 月、 還 著 得 心 力 麼? – Nếu là bọn học ngữ, chẳng tự xét biết lỗi của mình, còn muốn tìm hoa đốm trong hư không, mò trăng nơi sóng nước thì có tiết kiệm được tâm lực hay không?«.
BA TỴ 巴 鼻
Vốn có nghĩa là nắm chặt lỗ mũi, ẩn dụ dùng sợi dây xỏ mũi dắt trâu. Nghĩa mở rộng: 1. Chỗ ra tay lãnh ngộ thiền pháp, cũng chỉ thiền cơ, cơ phong. Pháp Diễn ngữ lục q. trung ghi: »師 上 堂、 卓 拄 杖 一 下、 乃 擧 起 云: 拄 杖 子、 敢 問 你、 還 說 得 如 來 禪 麼? 自 云: 說 不 得。 還說 得 祖 師 禪 麼? 自 云: 說 不 得。 既 說 不 得、 白 雲 今 日 出 自 己 意 去 也。 出 自 己 意、 小 兒 子 戯。 人 天 衆 前、 討 甚 巴鼻? – Sư thượng đường, dộng cây gậy xuống một cái rồi giơ lên, nói: Cây gậy ơi, dám hỏi ngươi: Có nói được Như lai thiền chăng? Sư tự đáp: Không nói được. Có nói được Tổ sư thiền chăng? Sư tự đáp: Không nói được. Đã không nói được thì Bạch Vân tôi hôm nay sẽ đưa ra ý của mình. Đưa ra ý của mình khác nào trò đùa của con nít. Ở trước chúng nhân thiên, tìm xem cơ phong gì?«
2. Chỗ nắm giữ, căn cứ. Tắc 3, BNL ghi:只 如 馬 大 師 如 此道 意 在 什 麼 處 ?有 底云﹕點 平 胃 散 一盞 來 有什 麼 巴 鼻?到 道 這 裏 作麼 生 得 平 穩 去?Mã Tổ nói như thế là có ý gì? Có người nói: Hãy uống một chén bình vị tán vào. Căn cứ vào đâu vậy? Thế thì làm sao được bình ổn đây?
BÀ BÀ HÒA HÒA 婆 婆 和 和
Oa oa, oe oe là tiếng kêu không rõ ràng của trẻ con. Thiền tông dùng từ này dụ cho ngôn hạnh của Như Lai không thiên lệch. Thuật ngữ này đồng nghĩa với từ »Anh Nhi Hạnh« trong Kinh Niết-bàn 18 (bản Nam). Thụy Châu Động Sơn Lương Giới Thiền sư ngữ lục (Đại 47, 526 thượng) ghi:
如 世 嬰 兒、 五 相 完 具
不 去 不 來、 不 起 不 住
婆 婆 和 和、 有 句 無 句
終 不 得 物、 語 未 正 故
»Như thế anh nhi, ngũ tướng hoàn cụ
Bất khứ bất lai, bất khởi bất trụ
Bà bà hòa hòa, hữu cú vô cú
Chung bất đắc vật, ngữ vị chính cố«.
»Như trẻ trong nôi, năm tướng đầy đủ
Chẳng đến chẳng đi, chẳng ngồi chẳng đứng
Oa oa! Oe oe! Tiếng được tiếng mất
Không ai hiểu chi. Vì lời chưa rõ«.
BẢ BẢN TU HÀNH 把 本 修 行
Nghĩa là thiền tăng bởi dính kẹt vào giáo pháp mà tu hành nên chưa thể vượt lên cảnh giới khoáng đạt tự tại. Hư Đường Hòa thượng ngữ lục q. 1 (Đại 4, 997 hạ) ghi: »從 來把 本 修 行、 不 敢 棄 嫌 因 果。 – Xưa nay nương tựa vào giáo pháp không dám coi thường nhân quả«.
BẢ BỔNG HOÁN CẨU 把 棒 喚 狗
Nguyên ý là cầm gậy gọi chó, đây không phải là cử chỉ bình thường mà bao hàm tính cách nguy hiểm là gọi lại để đánh. Thiền tông dùng cụm từ này để chỉ bậc Thầy sử dụng cơ pháp dữ dội hiểm ác khi dẫn dắt người học. Tắc 41, Thung Dung lục (Đại 48, 254 thượng) ghi: »若 揀 得 出、 分 付 鉢 袋 子。 把 棒 喚 狗 。 – Nếu ông phân biệt được thì ta trao cho cái đãy đựng bát (Cầm gậy gọi chó)«.
BẢ CHÂM 把 針
May vá áo quần. Trong tùng lâm thời xưa, tăng chúng thường tự may vá pháp phục, áo quần… vào những khi nhàn rỗi, ngoài lúc tu tập tọa thiền. Bách Trượng Quy Thắng Tụng trong Thiền Uyển Thanh Quy q. 10 (Vạn Tục 111, 468 thượng) ghi: »或 把 針、 剃 頭、 剪 紙、 合 藥、 或 曬 鞋 靸、 觸 衣、 浴 具、 皆 於 屋 後 僻 處。 – Hoặc may vá, cạo tóc, cắt giấy, làm thuốc hoặc phơi giày, giặt áo, rửa tọa cụ, đều ở nơi hậu liêu vắng vẻ!«.
BẢ ĐỊNH PHONG CƯƠNG 把 定 封 彊
Còn gọi: Bả đoạn phong cương, Bả đoạn yếu tân, Bả đoạn nhân hầu. Nghĩa đen là giữ vững biên giới của một nước. Thiền tông mượn cụm từ này chỉ cho việc lập bày một loại cơ duyên đốn ngộ: Chẳng lập văn tự, chặt đứt đường ngôn ngữ, không cho suy nghĩ, nhằm quét sạch mọi học giải tri kiến, vọng tình tục niệm.
BẢ KẾ ĐẦU NHA 把 髻 投 衙
Nguyên ý là chỉ cho sự cúi đầu tạ tội. Thiền tông dùng cụm từ này để chỉ cho sự ngu xuẩn của thiền tăng, đến nỗi hoàn toàn không tự biết hành động của chính mình. Tắc 81, Bích Nham lục (Đại 48, 207 trung) ghi: »僧 問 藥 山: 平 田 淺 草 麈鹿 成 羣 如 何 射 得 麈 中 麈 (把 髻 投 衙、 擊 頭 帶 角 出 來 腦 後 拔 箭) 山 云: 看 箭。 僧 放 身 便 倒。 – Tăng hỏi Dược Sơn: Đồng bằng cỏ thưa, hươu nai họp bầy, làm sao bắn được con nai chúa? (Thật ngu xuẩn, đầu sừng giơ ra, nhổ tên sau ót). Dược Sơn bảo: Xem tên đây! Tăng ngã nhào«.
BẢ LÃM PHÓNG THUYỀN 把 纜 放 船
Còn gọi: Bảo kiều trụ tháo tẩy. Bả lãm phóng thuyền nghĩa là nắm chặt dây neo mà đẩy thuyền đi. Bảo Kiều Trụ Tháo Tẩy nghĩa là hai tay ôm chặt trụ cầu mà muốn cọ rửa. Thiền tông dùng hai thí dụ này để chỉ cho việc giữ chặt giáo điều nên không thể giác ngộ. Tiết Đâu Suất Tùng Duyệt Thiền sư trong NĐHN q. 17 ghi: »今 時 人 猶 尚 抱 橋 柱 澡 洗、 把 纜 放 船。 – Thời nay, người ta còn ưa thích nắm giữ giáo điều nên không thể giác ngộ«.
BẢ MAO CÁI ĐẦU 把 茅 蓋 頭
Chỉ cho thiền tăng trụ trì tự viện. Nguyên có nghĩa lợp tranh mái am che đầu mà ở. Lương Giới ngữ lục ghi: »雲 居 問: 如 何 是 祖 師 西 來 意? 師 云: 闍 黎 他 後 有 把 茅 蓋 頭、 忽 有 人 問、 如 何 祇 對? – Vân Cư hỏi: Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang? Sư đáp: Xà-lê! Mai kia mốt nọ, ông làm Trụ trì, nếu có người hỏi ông thì làm sao đối đáp?«.
BẢ PHÓNG TRƯỚNG 把 放 帳
Còn gọi: Vô lậu quan, xuân thu bả phóng trướng. Bả là thu nhập. Phóng là chi xuất. Tức là sổ sách dùng để ghi chép việc thu chi tiền bạc trong Thiền viện.
BẢ THỦ 把 手
Tay nắm tay. Vô Môn Quan ghi: »禪 宗 無 門 關、 透 得 過 者、 非 但 親 見 趙 州、 便 可 與曆 代 祖 師 把 手 共 行。 – Người nào qua được cổng không cửa của Thiền tông, không những thấy được Triệu Châu, mà còn nắm tay lịch đại Tổ sư cùng đi.«
BẢ THỦ CÁNH DỮ TRƯỢNG 把 手 更 與 杖
Đã đưa tay nâng đỡ còn đưa thêm cái nạng. Tỷ dụ thiền sư khải thị người học bằng lời nói trùng lặp, rườm rà, không có thủ đoạn xuất sắc. Tiết Từ Vân Ngạn Long Thiền sư trong NĐHN q. 18 ghi: »上 堂、 擧、 玄 沙 示 衆 曰。。。 師 曰: 諸 禪 德、 這 箇 公 案、 唤 作 嚼 飯 喂 小 兒、 把 手 更 與 杖。 還 會 麼?若 未 會、 須 是 扣 己 而 參。 – Sư thượng đường, cử công án Huyền Sa thị chúng rằng… Sư nói: Chư thiền đức, công án này được gọi là nhai cơm mớm cho trẻ nít, chẳng phải là thủ đoạn xuất sắc. Có hội chăng? Nếu chưa hội, thì phải giam mình lại mà tham cứu«.
BẢ THỦ DUỆ BẤT NHẬP 把 手 拽 不 入
Tuy được dẫn dắt nhưng không có cách gì để xông vào. Thiền tông mượn từ này để chỉ cho không có pháp để cứu độ. Hư Đường Hòa thượng ngữ lục q. 2 (Đại 47, 1001 trung) ghi: »僧 云: 未 審 二 林 見 僧、 作 麼 生 接? 師 云: 把 手 拽 不 入。 – Tăng hỏi: Chẳng hay lúc Nhị Lâm gặp Tăng, dẫn dắt ra sao? Sư nói: Được dẫn dắt nhưng không vào được«.
BẢ TRÓC 把 捉
Nắm bắt. Lâm Tế lục ghi: »處 處 討 覓 尋 皆。 不 見 有 生 有 死。 唯 有 空 名。 幻 化 空 花 不 勞 把 捉。 得 失 是 非、 一 時 放 却。 – Tìm kiếm mọi nơi đều chẳng thấy có sinh có tử, chỉ có tên rỗng, như mộng huyễn, như hoa đốm giữa hư không, không nhọc nắm bắt, được mất phải quấy, buông xuống một lượt.«
BẢ TRỤ PHÓNG HÀNH 把 住 放 行
Còn gọi: Bả định phóng hành. Phương thức hoặc phong cách chẳng đồng khi lập bày cơ duyên. Bả trụ: Chặt đứt đường ngôn ngữ khiến đối phương bặt dứt mọi suy nghĩ, Phóng hành: Buông thả hơn, giúp cho người học có phương tiện vào cửa. Vô Môn Quan ghi: »一 人 向 深 深 海 底行、 簸 土 揚 塵、 一 人 於 高 高 山 頂 立、 白 浪 滔 天。 把 定 放 行、 各 出 一 隻 手、 扶 豎 宗 乘。 – Một người đi dưới đáy biển sâu, bụi tung mù mịt; một người đứng trên đỉnh núi cao, sóng bủa ngất trời. Bả định phóng hành, mỗi người đưa ra một tay, nâng đỡ Thiền tông«.
BÁC ĐỊA PHÀM PHU 博 地 凡 夫
Người thường. Tiết Phần Dương Đại Đạt Vô Nghiệp Quốc sư trong LĐHY q. 5 ghi: »十 地 諸 聖、 豈 不 通 佛 理? 可 不 如 一 箇 博 地 凡 夫? 實 無 此 理。 – Chư Thánh thập địa, há chẳng thông Phật lý? Vì sao chẳng bằng một người thường? Thật không có lý này.«
BÁC HÍ 博 戯
Cờ bạc, đánh bạc. Pháp Diễn ngữ lục q. trung ghi: »若 論 此 事、 如 人 博 戲 相 似。 忽 然 贏 得、 身 心 歡 喜、家 業 昌 盛、 覆 阴 兒 孫。 不 覺 輸 他、 自 然 迷 悶。 – Nếu luận về việc này thì giống như người đánh bạc. Bỗng nhiên thắng được, thân tâm vui mừng, gia nghiệp thịnh vượng, phúc ấm cho con cháu; còn như thua cuộc thì tự nhiên phải sầu muộn«.
BÁCH LIỄU THIÊN ĐÁNG 百 了 千 當
Trăm rành ngàn rõ, hoặc trăm ngàn ổn đáng. Chỉ cho trạng thái sau khi giác ngộ triệt để. Chương Phong Huyệt Diên Chiểu Thiền sư trong CĐTĐL q. 13 ghi: »問: 百 了 千 當 時 如 何? 師 曰: 不 許 夜 行、 投 明須 到。 – Hỏi: Khi đã giác ngộ một cách triệt để thì thế nào? Sư nói: Ban đêm không cho đi, sáng ngày bắt buộc phải đến«.
BÁCH NẠP Y 百 衲 衣
Còn gọi: Tệ nạp y, Đàn nạp y. Chỉ cho y vá, tứ y của Tăng, dùng vải củ rách, sửa sang may lại mà thành. Vì thường dùng 5 màu hoặc nhiều màu hỗn hợp may thành, nên còn gọi là Ngũ nạp y.
Tăng lữ do đắp mặc nạp y nên cũng tự xưng là Nạp tăng, Lão nạp, Bố nạp, Dã nạp, Chuyết nạp v.v… Theo Thích Thị Yếu Lãm, q. thượng: Nạp y vốn có 5 loại:
1. Hữu thí chủ y (y do thí chủ cúng).
2. Vô thí chủ y (y không do thí chủ cúng).
3. Vãng hoàn y (y may bằng vải liệm người chết).
4. Tử nhân y (y may bằng áo quàng người chết).
5. Phấn tảo y: Chỉ cho y may bằng vải rách thành từng mảnh bị vất bỏ. Có thể chia làm:
― Đạo lộ khí y (y may bằng vải vất bỏ ngoài đường).
― Phấn tảo xứ y (y may bằng vải bị quăng vào rác rưởi).
― Hà biên khí y (y may bằng vải bỏ bên bờ sông).
― Nghị xuyên phá y (y may bằng vải bị trùng kiến cắn).
― Phá toái y (y may bằng vải rách nát).
Nhưng sau khi Phật giáo thịnh hành, y phục của Tăng Ni không còn dùng các loại vải này.
BÁCH TẠP TOÁI 百 雜 碎
Lúng túng vô cùng. Tắc 16, Bích Nham lục (Tục 117, 146, thượng) ghi: »百 雜 碎、 老 婆 心 切且 莫 錯 認。 – Lúng túng vô cùng, tâm lão bà tha thiết xin chớ nhận lầm«.
BÁCH THIÊN NIÊN HẬU 百 千 年 後
Một trăm năm sau, ý nói lãnh ngộ thiền nghĩa còn đợi một trăm năm sau. Đây là lời nói mà thiền sư thường dùng để quở trách những người chưa tỉnh ngộ. Minh Giác ngữ lục ghi: 進 云: 非 但 學 人、 四眾 有 賴。 師 曰: 百 千 年 後。 – Tăng lại hỏi tiếp: Không những một mình con mà tứ chúng cũng được nhờ. Sư (Triệu Châu) nói: Một trăm năm sau.
BẠCH CHÙY 白 槌
Đánh kẻng hoặc đánh bảng để thông tri cáo bạch tăng chúng. Bạch là cáo bạch, chùy là cái dùi. Bạch chùy là dùng dùi đánh lên tấm bảng để báo cho đại chúng giữ yên lặng. Người giữ việc bạch chùy gọi là Bạch chùy sư, phần nhiều do các vị tôn túc rành phép tắc đảm nhiệm. Tổ Đình Sự Uyển q. 8 (Vạn Tục 113, 118 hạ) ghi: »白 槌、 世 尊律 儀、 欲 辨 佛 事、 必 先 秉 白、 爲 穆 衆 之 法 也。 今 宗 門 白 槌、 必 命 知 法 尊 宿 以 當 其 任。 長 老 才 據 座 已、 而 秉 白 云:法 筵 龍 象 衆、 當 觀 第 一 義。 長 老 觀 機 法 會 酬 唱 既 終、 復 秉 白 云: 諦 觀 法 王 法、 法 王 法 如 是。 此 蓋 先德 之 眞 規、 皆 不 失 佛 意。 且 見 叢 林 多 擧 世 尊 升 座、 文 殊 白 槌。 – Bạch chùy, theo luật nghi của Thế Tôn, muốn làm Phật sự, trước hết phải thưa bạch, là phép hòa chúng vậy. Ngày nay trong Thiền tông, bạch chùy ắt phải nhờ vị tôn túc biết pháp tắc đảm nhiệm việc ấy. Vị Trưởng lão vừa lên tòa xong, trình bạch rằng: »Pháp diên long tượng chúng, đương quán đệ nhất nghĩa (Pháp hội của hàng Đại thừa, phải nên quán đệ nhất nghĩa). Khi pháp hội xướng đáp đã xong, Trưởng lão lại trình bạch rằng: Đế quán Pháp vương pháp, Pháp vương pháp như thị (quán kỹ pháp của Phật, pháp của Phật như thị). Đây là khuôn phép chân thật của Tiên đức, đều không sai ý Phật. Lại thấy trong tùng lâm phần nhiều cử bài Thế Tôn thăng tòa, Văn-thù bạch chùy«.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BẠCH MÃ NHẬP LÔ HOA 白 馬 入 蘆 花
Bạch mã (ngựa trắng) cùng với Lô hoa (hoa lau) đều sắc trắng, cho nên khi ngựa trắng vào trong rừng hoa lau thì cùng với hoa lau đồng một màu khiến cho mắt thường không thể nào phân biệt được.
Thiền tông mượn cụm từ này để chỉ cảnh giới siêu việt tất cả kiến giải phân biệt nhân ngã, lớn nhỏ, cao thấp, tốt xấu. Tắc 13, Bích Nham lục (Đại 48, 153 hạ) ghi: »僧問 巴 陵: 如 何 是 提 婆 宗? (白 馬 入 蘆 花、 道 什 麼 點)。– Vị Tăng hỏi Ba Lăng: Thế nào là tông chỉ của Đề Bà? (Ngựa trắng vào rừng hoa lau làm sao phân biệt?)«.
BẠCH NIÊM TẶC 白 拈 賊
Gọi tắt: Bạch Niêm. Bạch là rỗng không, Niêm là dùng đầu ngón tay nhón lấy đồ vật. Tức là không lấy tay cầm vật mà chỉ lấy đầu ngón tay nhón lấy trộm, không lưu lại dấu vết. Ý chỉ cho kẻ trộm giỏi.
Có thuyết cho rằng Bạch có nghĩa là ban ngày, tức giữa ban ngày trước mắt nhìn lom lom đồ vật của mọi người mà nhanh khéo nhón lấy (cái tài khéo léo của kẻ trộm).
Thiền tông mượn từ Bạch Niêm Tặc để chỉ cho bậc Tông sư kiến tính dùng thủ thuật khéo léo để tiếp dẫn người học. Liên Đăng Hội Yếu q. 9 (Vạn Tục 136-289 hạ) ghi: »雪 峯 聞 云:臨 濟 大 似 箇 白 拈 賊。 師 云: 夫 善 窃 者、 鬼 神 莫 知、 既 被 雪 峯 覷 破、 臨 濟 不 是 好 手。 – Tuyết Phong nghe được, nói: Lâm Tế giống hệt tay trộm giỏi (…) Tuyết Đậu nói: Nếu là tay trộm giỏi thì quỷ thần cũng chẳng hay. Nay đã bị Tuyết Phong biết hết nên Lâm Tế chẳng phải là tay nhà nghề«.
BẠCH VÂN 白 雲
Mây trắng. Chỉ cho sự hoàn toàn không dính mắc, tự do vô ngại giống như mây trắng đến đi tự tại. Cảnh Đức Truyền Đăng lục q. 14 (Đại 51, 309 hạ) ghi: »道 悟問: 如 何 是 佛 法 大 意? 師 曰: 不 得 不 知。 悟 曰: 向 上 更 有 轉 處 也 無? 師 曰: 長 空 不 礙 白 雲 飛。 – Đạo Ngộ hỏi: Thế nào là đại ý của Phật pháp? Sư đáp: Không thể không biết! Đạo Ngộ hỏi: Hướng lên còn có chỗ nào chuyển không? Sư đáp: Không gian nào ngại mây trắng bay«.
BẠCH VÂN VẠN LÝ 白 雲 萬 里
Còn gọi: Bạch Vân thiên lý vạn lý.
Mây trắng muôn dặm, ý nói cùng với Thiền pháp cách nhau rất xa. Pháp Diễn ngữ lục q. hạ ghi: »自 十 九 到 二 十 三 日、 萬 余 人 來 此 赴 會 哄 哄 地、 如 今 只 見 老 漢 獨 自 口 吧 吧 地。 若 道 多人 閙 一 人 是 靜、 直 是 白 雲 萬 里! 畢 竟 如 何? 一 人 浩 浩、 多 人 靜 悄 悄、 不如 歸 堂 喫 茶 好。 – Từ ngày 19 đến ngày 23, hơn muôn người đến dự hội thật rộn rịp, hôm nay chỉ thấy lão này lải nhải một mình. Nếu nói nhiều người là ồn, một người là lặng, chính là mây trắng muôn dặm! Rốt cuộc thế nào? Một người thì ồn ào, nhiều người thì vắng lặng, chẳng bằng trở về nhà uống trà còn hơn«.
BẠCH Y BÁI TƯỚNG 白 衣 拜 相
Trong Phật giáo, bạch y thường dùng để chỉ cho người tại gia, nhưng ở đây chỉ chung cho hạng dân dã không địa vị quan chức. Bạch Y Bái Tướng, nghĩa là một kẻ bình dân không có địa vị nào hết, bỗng nhiên được phong chức Tể tướng. Thiền tông mượn từ này để chỉ cho người hoát nhiên đốn ngộ, chuyển phàm thành Thánh. Hư Đường Hòa thượng ngữ lục q. 1 (Đại 47, 990 thượng) ghi: »大 丈 夫 漢、 等 是 爲 人、 何 不 教 他脫 籠 頭、 卸 馱、 如 白 衣 拜 相 一 般。 – Kẻ đại trượng phu, họ cũng là người, sao không bảo họ cởi bỏ lồng chậu đồ mang vác đi, giống như hạng bình dân được phong chức Tể tướng«.
BÀI 牌
Là thẻ gỗ dùng để thông báo các thứ việc cho đại chúng trong các chùa. Thông thường thẻ dài khoảng 48cm, rộng hơn 38cm.
Tùy theo công việc được thông báo mà có các loại bài: 1. Giới lạp bài: Sắp xếp vị trí theo số năm thụ giới của tăng chúng; 2. Xướng y bài: Thông báo về việc rao bán di vật của vị tăng quá cố; 3. Thượng đường bài: Treo ở Pháp đường để thông báo thời khắc thượng đường; 4. Tọa thiền bài: Treo ở trước Thiền đường để thông báo giờ giấc ngồi thiền; và Tiểu tham bài, Phóng tham bài, Phổ thỉnh bài, Khai dục bài (tắm), Phóng sinh bài v.v…
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di
BÀI ĐIỆP 排 叠
Còn gọi: Bài phê 排 批. Sắp đặt, lo liệu. Tiết »Phổ Hóa Hòa thượng« trong TĐT q. 17 ghi: 非 久 之 間、 普化 自 上 來 臨 濟、 臨 濟 便 歡 喜、 排 批 飯 食、 對 坐 吃。 – Không bao lâu thì Phổ Hóa lên đến viện Lâm Tế. Lâm Tế (Nghĩa Huyền) liền sắp đặt cơm nước và cùng ngồi ăn.«
BÀI KHIỂN 排 遣
Ứng phó, đối phó. Tiết Vân Môn Văn Yển Thiền sư trong NĐHN q. 15 ghi: 問: 生 死 到 來、 如 何 排 遣? 師 展 手 曰: 還 我 生 死 來。 –Hỏi: Sinh tử đến, làm sao đối phó? Sư liền giơ tay, nói: Trả sinh tử lại cho ta.
BÀI VỊ 牌 位
Còn gọi: Bài Vị bản, Vị bài, Thần chủ, Thần bài, Chủ bài, Linh bài.
Hòa Thẻ gỗ dài từ 10 đến 40 cm dùng để ghi chép tên họ người chết để tiện cúng tế. Điều thiên hóa trong STBTTQ quyển 3 ghi: 問 每 日 三 時 上茶 湯,集 衆 諷 經 ,侯迎 牌 位 入 祖 堂 則 止,或待 新 住 持 至,方入 祖 堂有 佛 事。Mỗi ngày 3 lần dâng nước trà, nhóm chúng tụng kinh. Đợi cung nghênh bài vị vào Tổ đường thì ngừng hoặc đợi tân trụ trì đến, mới vào Tổ dường làm Phật sự.
BÃI ĐỘNG 摆 動
Phấn chấn tinh thần. Tiết Vân Môn Văn Yển Thiền sư trong NĐHN q. 15 ghi: »若 是 初 心 後 學、 直 須 摆 動 精 神、 莫 空 記人 說 處、 多 虛 不 如 少 實。 – Nếu là hàng hậu học sơ tâm cần phải phấn chấn tinh thần. Đừng luống công ghi nhớ những điều người khác nói. Nhiều rỗng chẳng bằng ít đặc«.
BÃI GIẢNG TRAI 罷 講 齋
Thiết trai cúng dường sau khi chấm dứt một pháp sự hay một kỳ thiền thất. Phần đông, người theo Giáo môn khi tham thiền có sự tỉnh ngộ, liền bãi giảng và thiết lập trai đàn cúng dường Tăng chúng, nghi thức ấy gọi là Bãi giảng trai. Hư Đường Hòa thượng ngữ lục q. 1 (Đại 47, 989 hạ) ghi: »良 遂 座 主 參 麻 谷、 谷 見 來、 攜 鉏 去 鉏草。 次日 又 來、 谷 便 閉 卻 門、 遂 因 此 契 悟、 乃 云: 和 尚 莫 謾 良 遂 好、 若 不 來 見 和 尚、 幾 被 十 二 分 教 誤 卻 一生。 遂 將 房 計 賣 卻、 作 一 罷 講 齋。 – Tọa chủ Lương Toại đến tham kiến Ma Cốc. Cốc thấy sư đến liền lấy cào đi cào cỏ. Ngày kế sư lại đến, Cốc lại đóng cửa. Nhân đó Toại khế ngộ, liền nói: Hòa thượng chớ lừa Lương Toại lắm! Nếu không đến tham kiến Hòa thượng thì hầu như tôi suốt đời bị 12 phần giáo làm lầm. Rồi Toại bán tài sản để thết bày một Bãi giảng trai«.
BÃI THAM 罷 參
Nghỉ việc tham thiền. Trong Thiền lâm, lúc người tham học khai ngộ, hiểu rõ đại sự, không cần tu đạo, tham thiền nữa. Tắc 96, Bích Nham lục (Đại 48, 21 thượng) ghi: »爾 若 透 得 此 三 頌、 便 許 爾 罷 參。 – Nếu ngươi thấu đáo được ba bài tụng này thì cho ngươi nghỉ việc tham thiền«.
Cảnh Đức Truyền Đăng lục q. 8 (Đại 51, 262 thượng) ghi: »自 罷 參 大 寂、 遊 至 海 昌。 – Từ khi nghỉ việc tham thiền nơi ngài Đại Tịch, liền đi đến Hải Xương«.
Bãi tham trai: Sau khi tham thiền đã được liễu ngộ, thiết trai cúng dường đại chúng.
Bãi tham hội: Hoàn thành sự tham vấn ở các nơi, hoặc đạt đến kiến giải của bậc khai ngộ.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BẠI KHUYẾT 敗 缺
1. Bị thua, bị đánh bại. Tiết Lâm Tế Nghĩa Huyền Thiền sư trong NĐHN q. 11 ghi: »師 以 手 指 曰: 這 老 漢 今 日 敗 缺 也。 – Sư lấy tay chỉ và nói: Lão già này hôm nay bị thua rồi!«.
2. Thất bại. Tiết Nam Viện Huệ Ngung Thiền sư trong NĐHN q. 11 ghi: »僧 參、 師 擧 拂 子、 僧 曰: 今 日 敗 缺。 – Tăng đến tham vấn, sư giở phất tử, tăng nói: Hôm nay thất bại«.
BÁN CÁ THÁNH NHÂN 半 個 聖 人
Một nửa người thánh. Bán cá là chỉ số ít, hiếm có. Bán Cá Thánh Nhân nghĩa bóng là một vị Thánh nhân hiếm có. Tiết Thạch Củng Huệ Tạng trong TĐT q. 14 ghi: »師 便 拋 下 弓 箭、云: 三 十 年 在 這 裏 今 日 射 得 半 個 聖 人。 – Sư liền vất cung tên xuống đất, nói rằng: Ba mươi năm ở đây, ngày nay chỉ bắn được một nửa người Thánh. «. Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BÁN ĐỀ 半 提
Thiền pháp được nêu ra không hoàn toàn triệt để. Mật Am ngữ lục ghi: »盡 乾 坤 大 地 喚 作 一 句 子、 担 枷 帶 鎖、 不 喚 作 一 句 子、 業 識 忙忙; 兩 頭 俱 透 脫、 凈 裸 裸、 亦 洒 洒、 沒 可 把、 達 摩 一 宗、 掃 土 而 盡。 所 以 雲 門 大 師 道: 盡 乾 坤 大 地 無絲 豪 過 患、 猶 是 轉 句; 不 見 一 色、 始 是 半 提; 更 須 知 有 全 提 時 节。 – Khắp đất trời thế giới gọi là một câu thì đội gông mang xiềng, chẳng gọi là một câu thì nghiệp thức mang mang, hai đầu đều thông suốt, toàn thể lộ bày không thể nắm bắt, một tông Đạt-ma đều bị quét sạch. Thế nên Đại sư Vân Môn nói: Đất trời thế giới đều không lầm lẫn mảy may cũng là chuyển cú, chẳng thấy một vật mới là bán đề; còn phải biết có thời tiết toàn đề nữa«.
BÁN KHAI BÁN HỢP 半 開 半 合
Còn gọi: Bán hợp bán khai. Nguyên là dụng ngữ của Phán Thích Giáo Tướng Phật Học. Khai có nghĩa là bày nói ra (biểu thuyên), hợp có nghĩa là trừ bỏ (giá thuyên). Trong Thiền tông thường dùng lời lẽ ấy để biểu thị trạng thái không nghiêng về một mối nào. Minh Giác Thiền sư ngữ lục q. 2 (Đại 47, 679 trung) ghi: »龍 泉 與 刀 斧 同 鐵、 利 鈍 懸 殊。。。 酌 然! 酌 然! 一 出 一 入、 半 合 半 開; 平 展 之 流、 試 辯 緇 素。 – Gươm Long Tuyền và dao búa đều bằng sắt, bén lụt khác nhau xa (…) Liệu đấy! Liệu đấy! Một xuất một nhập, nửa úp nửa mở, một loại ngang nhau, thử phân biệt xem đâu là đạo, tục«.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BÀN BẠC 盤 泊
Nương tựa, nương theo một người nào đó để tu học. Tiết Nham Đầu Hòa thượng trong TĐT q. 7 ghi: »後 參 德 山… 既 盤 泊 數 載、 盡 領 玄 旨。 – Sau đó, sư tham vấn Đức Sơn …. nương theo ngài được vài năm, lãnh ngộ hết huyền chỉ.«
BÀN BẠC 盤 礴
1. Xoay tít, vòng vèo. Bích Nham lục q. 1 ghi: »且 據 雪 竇 頌 此 公 案 一似 善 舞 太 阿 劍、 相 似 向 虛 空 中 盤 礴 自 然、 不 犯 鋒 鋩。 – Cứ theo lời tụng công án này của Tuyết Đậu giống như người giỏi múa kiếm Thái A, huơ xoay tít vòng vèo trong hư không một cách tự nhiên mà không chạm đến lưỡi bén.«
2. Tìm xét nhiều lần. Bích Nham lục q. 1 ghi: »雪 竇 頌 一 百 則 公 案、一 則 則 焚 香 拈 出。 所 以 大 行 於 世。 他 更 會 文 章、 透 得 公 案、 盤 礴 得 熟 方 可 下 筆。 何 故? 如 此 龍 蛇 易辨 衲 子 難 瞞。 – Tuyết Đậu tụng một trăm tắc công án, mỗi tắc đều phải thắp hương tụng ra, vì thế được thạnh hành ở đời. Sư đã thông hiểu văn chương lại thấu triệt công án, tìm xét nhiều lần thật chín chắn mới hạ bút. Tại sao như thế? Vì rắn rồng dễ biện, thiền tăng khó lừa.«
BÀN ĐẠI TỬ 媻 大 子
Còn gọi: Bát đại tử, Bàn đại nhi. Bậc siêu phàm, người thường không thể dùng kiến thức thông thường mà biết hoặc đo lường sự khác biệt về cái biết của họ được. Trúc Thiên Hòa thượng ngữ lục q. trung (Đại 80, 377 hạ) ghi: »進 云: 時 有 僧 曰: 特 牛 生 兒 也 何 以 不 道? 山 曰: 把 燈 來! 把 燈 來! 又 作 麼生?答 云: 如 槃 大 子。– Có người hỏi: Khi ấy có vị tăng nói: Trâu đực sinh con vì sao không nói? Sơn đáp: Đem đèn lại! Đem đèn lại, là cái gì? Đáp: Như Bàn đại tử«.
BÀN HOÀN 盤 桓
Tình ý ân cần sâu nặng. Mật Am ngữ lục ghi:
忽 接 四 明 信。
來 書 意 盤 桓。
天 童 虛 法 席。
使 君 語 猶 端。
迢 迢 遣 專 使。
不 問 路 行 難。
山 僧 臨 晚 景。
不 敢 自 相 瞞。
搥 鼓 樂 與 行。
四 眾 亦 欣 歡。 –
Bỗng được thư Tứ Minh,
Lời lẽ thật ân cần,
Pháp hội Thiên Đồng trống,
Khiến huynh phải băn khoăn.
Xa xôi sai sứ giả,
Chẳng kể đường khó khăn. Sơn tăng tuổi đã già,
Chẳng dám tự dối huynh. Đánh trống vui vẻ đi.
Bốn chúng cũng vui mừng.«
BẢN 板
1.Một loại pháp khí dùng để đánh báo hiệu cho đại chúng biết thời khắc hoặc khi tập hội. Bảng được treo nơi nhất định trong tự viện, phần nhiều được làm bằng gỗ, nhưng cũng có khi làm bằng thau; trên mặt bảng có viết kệ, hay pháp cú như sinh tử sự đại v.v…Ngoài ra tùy theo hình dáng mà bảng có các tên gọi như: Vân bản, Ngư bản v.v…
2. Đơn ( giường nằm) của đại chúng trong Tăng đường của các tự viện thiền tông. Tùy theo Tăng đường lớn nhỏ mà có 4 bản, 6 bản, 12 bản khác nhau. Căn cứ vào vị trí mà có các tên gọi: Tiền bản, Hậu bản, Xuất nhập bản, Thủ tọa bản (Đông bắc sàng), Tây đường bản (Đông nam sàng), Hậu đường bản (Tây bắc sàng), Lập tăng bản (Tây nam sàng).
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BẢN ĐẦU 板 頭
1. Vị trí đầu tiên trong các bản đơn (giường nằm) của Tăng đường. Như 4 giường: Đông bắc, Tây bắc, Tây nam, Đông nam, mỗi giường đều có 5 người, y theo thứ lớp giới lạp mà nằm. Bốn chỗ đầu tiên của bốn giường gọi chung là Tứ bản đầu. theo thứ tự gọi là Thủ tọa bản đầu, Hậu đường bản đầu, Lập tăng bản đầu và Tây đường bản đầu. TUTQ quyển 1 ghi: 能 於 前 門 內,南 頬 牀 下 版 頭 笫 三 位,次笫而坐。Bên trong cửa trước, đầu giường phía nam là vị trí của bản đầu thứ ba, kế tiếp theo thứ lớp mà ngồi.
2. Cái hộc ở đầu đơn (giường một người nằm).
BẢN ĐƯỜNG 本堂
Nơi an trí đức Bản tôn. Thiền tông gọi Bản đường là Phật điện.
BẢN LAI DIỆN MỤC 本 來 面 目
Còn gọi: Bản địa phong quang, Bản phận điền địa, Tự kỷ bản phận. Diện mạo vốn có. Chỉ cho tự tính chẳng mê chẳng ngộ mà mọi người đều sẵn có, chỉ hiện tiền khi thân tâm tự nhiên rỗng rang. Đồng nghĩa với Bản giác của Hiển giáo, Bản sở của Mật giáo. Kinh Pháp Bảo Đàn (Đại 48, 349 trung) ghi: »能 云: 不 思 善、 不 思 惡。 正 與 麼 時、 那 箇 是 明 上 座 本 來 面 目? – Huệ Năng nói: Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính lúc đó cái gì là mặt mũi xưa nay của Thượng tọa Minh?«.
Bích Nham lục q. 10 (Đại 48, 223 trung) ghi: »直 須 淨 躶 躶 赤 灑 灑 更 無 物 可 得 乃 是 本 地 風 光 一 似。 – Cần phải bày lồ lộ, sạch trọi trơn, không có một vật khá được, mới là mặt mũi xưa nay«. Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BẢN LAI VÔ NHẤT VẬT 本 來 無 一 物
Tự tính vốn thanh tịnh, nào có vật gì. Thuật ngữ này xuất phát từ Lục Tổ Đàn Kinh (Đại 48, 349 thượng):
菩 提 本 無 樹。
明 鏡 亦 非 臺
本 來 無 一 物。
何 處 有 塵 埃
»Bồ-đề bản vô thụ,
minh kính diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật,
hà xứ nhạ trần ai?«
»Bồ-đề vốn không cây,
Gương sáng cũng chẳng đài,
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào lấm trần ai?«.
Ý nói tất cả đều vắng lặng, không còn một vật nào, đó là cảnh giới giác ngộ sáng suốt.
BẢN LAI VÔ SỰ 本 來 無 事
Còn gọi: Bản vô sự nhi vong tình, hưu tâm bất khởi. Vốn không có tạo tác. Đây là đường lối tu hành của phái Thiền Ngưu Đầu. Phái này cho rằng Tâm cảnh vốn không có, tâm tạo tác đều là mê vọng, cho nên phải tan mất vọng tình của mình đi thì cảnh sẽ không có chỗ nương tựa. Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BẢN MẠNG NGUYÊN THẦN 本 命 元 辰
Bản Mạng, Nguyên Thần đều là những vì sao chi phối vận mệnh con người. Thiền tông dùng từ Bản Mạng Nguyên Thần để dụ cho bản tính của chính mình. Bài 60 trong Sơn Cư Bách Vịnh của Thiền sư Tông Bản ghi:
山 居 趺 坐 一 蒲 團
日 用 工 夫 在 反 觀
本 命 元 辰 知 落 處
舌 頭 不 被 別 人 謾
»Sơn cư phu tọa nhất bồ đoàn
Nhật dụng công phu tại phản quan
Bản Mạng Nguyên Thần tri lạc xứ
Thiệt đầu bất bị biệt nhân man«.
»Ở non ngồi vững một bồ đoàn
Hằng dụng công phu tự phản quan
Đến nay không bị ai lừa nữa
Vì ngộ bản tính thật rõ ràng«.
BẢN NGUYÊN CHÂN TÍNH PHẬT 本 源 眞 性 佛
Tính giác sẵn có nơi mỗi người, xưa nay là Phật. Uyển Lăng lục ghi: »爾 今 聞 發 菩 提 心、 將 謂 一箇 心 學 取 佛 去、 唯 擬 作 佛。 任 爾 三 秖 劫 修、 亦 秖 得 箇 報 化 佛、 與 爾 本 源 眞 性 佛 有 何 交 涉。– Nay người nghe nói phát tâm Bồ-đề liền tưởng rằng đem tâm để học Phật, chỉ mong làm Phật. Mặc cho ngươi tu ba kỳ kiếp, cũng chỉ được Phật báo hóa, cùng với Bản nguyên chân tính Phật có gì dính dáng.«
BẢN PHẬN 本 分
1. Sự việc cốt lõi đối với bản thân một người. Tiết Điểu Khòa Hòa thượng trong TĐT q. 3 ghi: »雖 然 如 此、 出 家 自 有本 分 事。 作 麼 生 是 和 尚 本 分 事? – Mặc dù như thế, xuất gia tự có việc bản phận. Thế nào là việc bản phận của Hòa thượng?«.
2. Quen tay thạo việc, lão luyện. Minh Giác ngữ lục q. 1 ghi: »若 云 言 中 有响、 句 裏 呈 機、 猶 曲 爲 中 下 之 流、 向 本 分 衲 僧、遠 之 遠 矣! – Nếu nói trong lời có vang, trong câu trình cơ, cũng còn là phương tiện tiếp dẫn hàng trung hạ, đối với nạp tăng lão luyện quả còn cách xa lắm vậy.«
BẢN PHẬN KIỀM CHÙY 本 分 鉗 錘
Chỉ thủ thuật mạnh bạo của thiền sư bản sắc khi tiếp dẫn người học. Kiềm chùy: Kìm và búa là dụng cụ của người thợ rèn. Duy Tắc ngữ lục q. 2 ghi: » 發 明 之 後、 更 須 就 作 家 爐 鞴、 本 分 鉗 錘、 鍛 煉 一 回、 無 絲 毫 滲 漏、 方 許 得 解 粘 去 縛。 – Sau khi phát minh còn phải vào lò rèn của người thợ giỏi, để ông ta dùng thủ đoạn mạnh bạo, trui luyện một phen, không còn một chút rò rỉ nào mới chịu cho rằng ngươi đã thoát khỏi mọi dính mắc.«
BẢN PHẬN NHÂN 本 分人
Chỉ thiền nhân lão luyện. Bích Nham lục q. 1 ghi: »若 是 本 分 人 到 這 裏、 須 是 有 驅 耕 夫 之 牛 奪 饑 人 之 食 底 手 脚、 方見 馬 大 師 爲 人 處。 – Nếu là thiền nhân lão luyện đến chỗ nầy cần phải có thủ đoạn đuổi trâu của người cày, đoạt cơm của kẻ đói, mới thấy được chỗ vì người của Mã đại sư.«
BẢN PHẬN SỰ 本 分 事
1. Việc quan trọng bên trong bản thân của thiền nhân, chỉ cho việc đạt được thiền ngộ, siêu thoát sinh tử. Chương Điểu Khòa Hòa thượng trong TĐT q. 3 ghi: »今 人 (指 白 居 易) 歸 京、 入 寺 遊 戲、 見 僧念 經、 更 問: 甲 子 多 少? 對 曰: 八 十 五。 進 曰: 念 經 得 幾 年? 對 曰: 六 十 年。 舍 云: 大 奇! 大 奇! 雖 然 如 是、出 家 自 有 本 分 事。 作 麼 生 是 和 尚 本 分 事? 僧 無 對。 – Xá nhân (chỉ Bạch Cư Dị) trở về kinh, vào chùa vãn cảnh, thấy tăng tụng kinh, liền hỏi: Sư được bao nhiêu tuổi? Vị tăng đáp: Tám mươi lăm. Lại hỏi: Tụng kinh được mấy năm. Vị tăng đáp: Sáu mươi năm. Bạch Cư Dị nói: Rất hay! Rất hay! Mặc dù như vậy, xuất gia tự có bản phận sự. Cái gì là bản phận sự của Hòa thượng? Tăng không đáp được.«
2. Thiền sư tài giỏi dùng pháp nhãn chọn lấy thủ thuật tiếp dẫn người học. Bích Nham lục q. 1 ghi: »此 是 大 手 宗 師。 不 與 你 論 玄 論 妙 論 機 論 境、 一 向 以 本 分 事 接 人。 – Đây là bậc Thiền sư cao thủ, không bàn luận huyền diệu, cơ cảnh với người mà chỉ một bề dùng Bản phận sự để tiếp dẫn người.«
BẢN PHẬN THẢO LIỆU 本 分 草 料
Giở ngón sở trường. Phần Bình của tắc 15 trong Vô Môn Quan ghi: »雲 門 當 時 便 與 本 分 草 料 使 洞 山 別 有 生 機 一 路、 家門 不 致 寂 寥。 – Vân Môn bấy giờ giở ngón sở trường, khiến Động Sơn mở riêng được con đường sống, tông môn không đến nỗi đìu hiu«.
BẢN PHẬT 本 佛
Mọi người vốn có Phật tính, xưa nay là Phật, gọi là bản Phật. Đoạn Tế Tâm Yếu ghi: »言 寶 所 者、 乃 眞 心 本佛 自 性 之 寶。 – Nói Bảo sở đó, là cái quý báu của tự tính, của nhân tâm bản Phật.«
BẢN SẮC ĐẠO NHÂN 本 色 道 人
Chỉ thiền tăng chân chính. Khai thị Bản sắc đạo nhân trong Minh Bản tạp lục q. trung ghi: »要 做 本 色 道 人. 別 無 他 巧 便,单 单 只 要 不 惜 身 命,忘 死 向 前,猛 做 一 回,做 到 者 力 不得 處,用 心 不 得 時,正 好 用 心,久 久 與 麼 挨,與 麼 行 十 个 有 五 雙. 管 取 心 空 及 第 去 – Cần làm thiền tông chân chính, đặc biệt chớ dùng phương tiện nào khác, chỉ cần mỗi một việc là chẳng quản thân mạnh tiến bước, dũng mãnh một phen, làm đến chỗ suy nghĩ chẳng được. Lúc suy nghĩ chẳng được chính là chỗ dụng tâm tốt nhất. Bị bức ngặt thế ấy, thực hành thế ấy một thời gian lâu, chỉ lo giữ tâm không liền được đỗ đạt.«
BẢN SẮC KIỀM CHÙY 本 色 鉗 錘
Bản sắc cứng cỏi như cái kềm, cái búa bằng sắt trong lò rèn. Chỉ cho bản lĩnh vững vàng của thiền sư chính tông. Thiền Lâm Tăng Bảo truyện q. 22 ghi: »慧南 有 道 之 器 也、 惜 未 受 本 色 鉗 錘 耳。 – Huệ Nam là người có năng lực để kiến tính, nhưng tiếc là chưa gặp được Thiền sư chính tông«.
BẢN TÂM 本 心
Tâm cội nguồn, tâm giác ngộ, tức chỉ Phật tính của mọi người sẵn có xưa nay. Đàn Kinh bản Đôn Hoàng ghi: »不 識本 心、 學 法 無 益。 – Không biết bản tâm, học Pháp vô ích.«
BẢN THƯỜNG LÝ 本 常 理
Đạo lý xưa nay vĩnh hằng bất biến.
BẢN TÍNH 本 性
Tính có sẵn, tức Phật tính mà mọi người đều sẵn đủ. Đàn Kinh bản Đôn Hoàng: »本 性 自 清 淨 自 定。 – Bản tính tự thanh tịnh tự yên định.« Tiết Ô Cự Hành Thiền sư trong NĐHN q, 20 ghi: »見 則 見 自 本 性。 – Thấy thì thấy tự bản tính.«
BẠN CHÂN THANG 伴 眞 湯
Nước trà nóng mà vị Trụ trì mời các vị Tây đường, Lưỡng tự (Bạn chân) dùng trước bàn Phật hay trước tượng Tổ sư sau lễ cúng kỵ vị thầy mà Trụ trì nối pháp. Theo điều Tự Pháp Sư Kị trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy q. 2 (Đại 48, 1119 thượng): »若 請 特 爲 伴 眞 湯 (齋 罷、 方 丈 客 頭請 西 堂、 兩 序、 晚 間 對 眞、 相 伴 喫 湯。) – Nếu đặc biệt thỉnh hai vị: Tây đường và Lưỡng tự, thì gọi là Bạn chân thang. (Thọ trai xong, Tri khách của phương trượng mời các Tây đường, Lưỡng tự, buổi chiều tối ở trước tượng cùng nhau dùng nước trà nóng)«.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BẠN DẠ 伴 夜
Còn gọi: Vãn dạ, Đại dạ, Thông dạ (gọi theo thế tục). Trong các tự viện Thiền tông, một đêm trước khi đem vong tăng (vị tăng đã mất) làm lễ trà tỳ, các sư tăng thức suốt đêm ở một bên làm bạn với vong tăng và cúng dường. Căn cứ theo Đại Giám Thanh Quy được dẫn trong môn Tiết Thời thứ 4, Thiền Lâm Tượng Khí Tiên, thì đêm thị tịch của người chết gọi là Đương Dạ, đêm thứ hai gọi là Vãn Dạ, ngày thứ ba là lễ Trà Tỳ.
Vãn Dạ còn gọi là Đại Dạ, bởi chỉ quàn lại đây một đêm, ngày mai an táng (không về nữa), cho nên ân cần cúng dường. Các sư tăng vây quanh trọn đêm không ngủ, nên gọi là Bạn Dạ, đêm ấy chỉ đánh khánh và tụng Kinh Kim Cang.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BẠN HẠC TÙY PHONG ĐẮC TỰ DO 伴 鶴 隨 風 得 自 由
Nhàn nhã như đám mây, như cánh hạc theo gió rong chơi. Thiền tông dùng cụm từ này để dụ cho cảnh giới giải thoát của Thiền giả cũng như mây hạc tự do tự tại không chướng ngại. Tắc 19, Thung Dung lục (Đại 48, 239 trung) ghi: »滄 海 闊、 白 雲 閑 (伴 鶴隨 風 得 自 由)。 – Biển xanh bát ngát, mây trắng bồng bềnh (Làm bạn với hạc theo gió rong chơi)«.
BẠN LIÊU 伴 寮
Chức danh người được tự do ra vào liêu xá trong thiền viện. Thông thường chỉ có Thủ tọa mới có quyền này. Điều Bách Trượng Thanh Quy Thằng tụng trong TUTQ quyển 10 ghi:伴 寮 唯 首 座,此 外 聽 堂 司,大 衆 衣 盂 地,閑 人 總 不 宜。Ở Thính đường ty và chỗ để y bát của đại chúng, người không phận sự không được vào, trừ vị Thủ tọa với chức danh Bạn liêu. Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BẠN TĂNG 伴 僧
1. Còn gọi: Dịch tăng. Trong Tịnh Độ Chân Tông ở Nhật Bản, Bạn Tăng là vị tăng giúp sức cho vị Trụ trì trong các pháp vụ như: Đọc kinh v.v…
2. Còn gọi: Tòng tăng. Vị tăng đi theo vị Trụ trì.
3. Là vị tăng siêng năng hành đạo, theo sát vị Đạo sư trong nghi thức tu của Mật giáo. Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BẠN THIỀN 伴 禪
Còn gọi: Bồi Thiền. Canh năm, Trụ trì sau khi hành hương lên Tăng đường giúp đỡ đại chúng tọa thiền. Theo điều Trụ Trì trong Tiểu Tùng Lâm Lược Thanh Quy q. thượng (Đại 81, 690 trung) ghi: »住 持 但 伴 大 衆 坐 禪、 此 名 陪 禪。 – Vị Trụ trì nào giúp đỡ đại chúng tọa thiền gọi là Bồi Thiền«.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BẠN TRAI 伴 齋
Người cùng ăn cơm trưa với vị tân trụ trì. Trong thiền viện, Bạn trai chỉ cho việc thọ trai hoặc vật thực cúng dường trong lúc làm Phật sự. Điều thỉnh Tân trụ trì trong STBTTQ quyển 3 ghi:次 行 大 衆 襯 畢,歸 位 伴 齋. Lần lượt ban phát đồ cúng dường cho đại chúng xong, trở về chỗ để thọ thực (bạn trai).
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di
BANG 梆
Còn gọi: Phạn bang, Mộc ngư, Ngư cổ, Ngư bản, Ngư bang, Minh ngư.
Cái mõ dài hoặc cái bảng bằng gỗ chạm hình con cá, nhà thiền dùng để báo cho đại chúng biết giờ tắm, giờ ăn. Chưong Pháp khí trong STBTTQ quyển ghi: 此 是 木魚,齋 粥 二時 長 撃 二 通,普 請 僧 衆 長 撃 一 通,普 請 行 者 二 通。Phép dùng mộc ngư, hai thời trưa và chiều đánh một hồi dài. Thỉnh khắp chúng tăng thì đánh một hồi dài, phổ thỉnh hành giả thì đánh hai hồi .
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di
BÀNG GIA HÀNH CƯỚC 傍 家 行 脚
Chư tăng hành cước đến các Thiền viện khác để tham bái. Văn Ích ngữ lục ghi: »諸 上 座 傍 家 行 脚、 也 須 審 諦、 著 些 精 彩、 莫 只 藉 少 智 慧、 過 却時 光。 – Các Thượng tọa hành cước đến các Thiền viện khác để tham bái, cũng phải xét kỹ, phải có chút đỉnh xuất sắc, chớ ỷ vào một ít trí huệ mà bỏ mất thời gian«.
BÀNG MIẾT NGỮ 傍 瞥 語
Lời nói mé, nói thoáng qua để thổ lộ yếu chỉ của thiền sư đối với người học. Tắc 30, Bích Nham lục (Đại 48, 169 hạ) ghi: »遠 錄 公 云: 此 是 傍 瞥 語。 – Viễn Lục Công nói: Đây là lời nói thoáng qua để thổ lộ yếu chỉ«.
BẢNG TRẠNG BÀI THỊ 榜 狀 牌 示
Trong tùng lâm, mỗi khi làm việc phải tri đơn, thiết bảng, thư trạng, bài thị v.v… để làm phương tiện thông tri cho đại chúng.
Như khi vị Trụ trì mời trà nước Thủ tọa hoặc các vị tôn túc từ xa đến đều dùng bảng liệt kê danh sách do thị giả báo cho biết, gọi là Tri đơn.
Lại, Trụ trì, Tri khố thỉnh mời chiêu đãi trà nước đại chúng thì dùng bảng, Thủ tọa mời thì dùng trạng.
Địa điểm dán trạng, bảng, mỗi cái cũng không giống nhau: Phương trượng thỉnh Thủ tọa thì dán bảng ở trên tấm thẻ bên phía đông trước nhà Tăng. Tri khố mời Thủ tọa thì đem bảng dán ở trên tấm thẻ bên phía tây. Thủ tọa thỉnh Hạ đầu, Thủ trà, thì đem trạng dán trên tấm ván gian dưới trước nhà Tăng.
Còn sự thông tri hành chính trong tùng lâm đều dùng phương thức treo thẻ để truyền đạt, gọi là Bài thị.
Địa điểm treo thẻ, tùy theo công việc mà nơi treo khác nhau. Như các thẻ báo tin về kiết hạ, tụng giới, thỉnh thức, thiếp đan, phổ Phật v.v… đều treo ở trước Trai đường. Thượng đường, bỉnh phất, cầu thỉnh, cầu mưa v.v… treo thẻ ở trước Đại điện. Khởi thất, giải thất v.v… treo thẻ ở trước Thiền đường. Thăng tòa, miễn lễ v.v… treo thẻ ở phía trong trước điện Vi Đà.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BẠNG CÁP THIỀN 蚌 蛤 禪
Thiền pháp nêu rõ chân diện mục của bậc pháp sư Thiền tông, giống như thấy rõ ruột gan của con sò (Bạng cáp: con sò). Tắc 18, Vô Môn Quan (Đại 48, 295 trung) ghi: »洞 山 老 人、 參 得 些 蚌 蛤 禪。 – Ông già Động Sơn, tham được chút ít Bạng cáp thiền«.
BẢO NHẬM 保 任
Sau khi ngộ thiền, còn cần phải gìn giữ, củng cố kết quả tu hành, gọi là Bảo nhậm. Tiết Hoa Dược Trí Bằng Thiền sư trong NĐHN q. 14 ghi: »師 豁 然 有 省。 乃 曰:元 來 恁 麼 地。成 (指 枯 木 成 禪 師) 曰:汝作 麼 生 會? 師 曰: 春生 夏 長、 秋 收 冬 藏。 成 曰: 直 須 保 任。 師 應 喏。 – Sư liền khế ngộ và nói: Hóa ra thế ấy. Thành (chỉ thiền sư Khô Mộc Thành) bảo: Ngươi hội cái gì? Sư đáp: Mùa xuân gieo hạt, mùa hạ lớn lên, mùa thu gặt hái, mùa đông cất chứa. Thành bảo: Nhất thiết phải bảo nhậm. Sư ứng thanh: Dạ.«
BẢO SỞ 寶 所
Dụ chỉ cảnh giới cao tột của Đại thừa, tức thành Phật. Tiết Tục Nghệ Ngôn trong NHQL q. 30 ghi: »若 能 如 是 用 心、 則 寶 所 在 近、 決 不 相 賺。 – Nếu dụng tâm được như thế thì gần đến Bảo sở, quyết chẳng dối gạt nhau«.
BÃO KIỀU TRỤ THÁO TẨY 抱 橋 住 操 洗 (1)
Còn gọi: Bão Xuân đả phách phù (2)
1. Hai tay ôm chặt cột cầu mà muốn cọ rửa,
2. Hai tay ôm chặt cây Xuân mà muốn đi chơi.
Giống như người muốn được lãnh ngộ tự tâm mà cứ chấp chặt giáo điều.
BÃO TANG KHIẾU KHUẤT 抱 贓 呌 屈
Tay ôm tang vật mà miệng kêu oan. Thiền tông dùng dụ này để chỉ cho sự chối cãi và biện giải hết sức vụng về, đáng buồn cười. Tiết Trí Hải Đạo Bình Thiền sư trong NĐHN q. 12 ghi: »古 人 恁 麼 說 話、 大 似 抱 贓 呌 屈。 – Người xưa nói như thế thật đáng buồn cười vì giống như sự chối cãi và biện giải hết sức vụng về«.
BÃO TÙNG LÂM 飽 叢 林
Đối lại: Thiếu tùng lâm. Còn gọi: Cửu tham, lão tham, cựu tham.
1. Người tham thiền học đạo lâu năm (d. từ)
2. Tham thiền học đạo một cách lâu dài (đ. từ). Cổ Tôn Túc ngữ lục q. 39 (Vạn Tục 118, 332 hạ) ghi: »所 以 趙州 八 十 尚 自 行 脚、 祇 是 要 飽 叢 林、 又 且 不 擔 板。 – Sở dĩ ngài Triệu Châu 80 tuổi vẫn còn hành cước, chỉ vì muốn tham thiền tu tập một cách lâu dài và để cái thấy của mình không còn bị giới hạn«.
BÁT 潑
Xấu xa, hư hỏng. Từ phản nghĩa của chữ Hảo 好. Tiết Thái Dương Huyền Thiền sư trong NGCTT q. 3 ghi: »聲 色 堆頭、 强 說 有 出 身 之 路、 非 央 庠 座 主、 誰 受 你 破 皮 履、 潑 禪 衣? – Trong đống thanh sắc cố nói có con đường xuất thân. Nếu không phải là giảng sư dở dở ương ương thì ai làm cho ngươi phải chịu rách giày hư áo? (Hành cước vất vả). «.
BÁT BỔNG 八 棒
Tám thứ gậy:
1. Giải lệnh chỉ huyền bổng: Gậy phạt.
2. Tiếp cơ tùng chính bổng: Gậy tiếp cơ, đáng đánh thì đánh.
3. Khảo huyền thương chính bổng: Gậy phạt người học ưa việc lạ lùng, dựa vào huyền diệu làm tổn thương chính lý.
4. Ấn thuận tông chỉ bổng: Gậy thưởng người học tương ưng với tông chỉ của Thầy.
5. Thử nghiệm hư thực bổng: Gậy không thưởng không phạt, vừa thấy liền đánh để thử sự tu hành của người học xem hư hay thực.
6. Manh gia hạt bổng: Gậy đánh bậy vì không sáng mắt. Đây là lỗi của Tông sư.
7. Khổ trách ngu si bổng: Gậy trách mắng người học ngu si.
8. Tảo trừ phàm thánh bổng: Gậy đánh để quét sạch phàm thánh.
BÁT DIỆN LINH LUNG 八 面 玲 瓏
Tám mặt long lanh. Chỉ cho thủ thuật chu toàn khéo léo. Trong bài tụng tắc 68 của Bích Nham lục q. 7: »雙 收 雙 放 若 爲 宗 (知 他 有 幾 人、 八 面 玲 瓏、 將 謂 眞 箇、 有 恁 麼 事。) – Song thâu song phóng làm tông yếu (Có mấy người biết ông ta có thủ đoạn chu toàn khéo léo, tưởng đâu thật sự có việc như thế!)«.
BÁT HỎA MÍCH PHÙ ÂU 撥 火 覓 浮 漚
Bươi trong than lửa tìm bọt nước. Dụ cho việc làm điên đảo hoang đường. Tiết Tư Không Bản Tịnh Thiền sư trong NĐHN q. 2 ghi: »道 性 如 虛 空、 虛 空 何 所 修? 遍 觀 修 道 者、 撥 火 覓 浮 漚。 – Tính đạo như hư không, hư không làm sao tu? Xem thấy kẻ tu đạo đang làm việc điên đảo hoang đường«.
BÁT MY 撥 眉
Còn gọi: Bát my kích mục. Vén lông mày, là cách thị cơ trong nhà Thiền, là động thái ngữ khi ứng cơ của thiền tăng. Tiết Long Quang Hòa thượng trong TĐT q. 12 ghi: »問: 古 人 因 星 得 悟、 意 作 麼 生? 師 以 手 撥 開 眉。 – Hỏi: Người xưa thấy sao được ngộ, là ý làm sao? Sư lấy tay vén lông mày«.
BÁT-NHÃ ĐẦU般 若 頭
Chức danh của vị sư trông coi việc đọc tụng kinh Bát-nhã và khuyến hóa sự đóng góp, cúng dường của đàn việt để làm tăng trưởng phước điền.
BÁT-NHÃ PHONG般 若鋒
Mũi nhọn Bát-nhã. Vì không huệ Bát-nhã sắc nhọn có khả năng đoạn sạch phiền não, nên được dụ cho mũi nhọn của gươm dáo. Chứng Đạo Ca ghi:大 丈 夫 秉 慧 劍,
般 若 鋒 兮 金 剛 焰
Đại trượng phu cầm gươm huệ,
Mũi nhọn Bát-nhã, lửa kim cương.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BÁT-NHÃ QUÁN CHIẾU 般 若 觀 照
Dùng trí huệ Phật pháp để xem xét, nhận thức mọi sự lý. Đàn Kinh bản Đôn Hoàng ghi: »汝 若不 得 自 悟、 當 起 般 若 觀 照、 剎 那 間、 妄 念 俱 滅、 卽 是 自 眞 正 善 知 識。 – Nếu ngươi chẳng được tự ngộ, cần dùng trí huệ Phật pháp để xem xét, nhận thức tất cả sự lý. Trong khoảng sát-na, vọng niệm đều diệt, trí huệ đó chính là bậc Thầy chân chính của mình.«
BÁT THẢO CHIÊM PHONG 撥 草 瞻 風
Còn gọi: Bát thảo tham huyền. Nghĩa đen chỉ cho việc vạch cỏ đón gió. Thiền tông mượn cụm từ này để chỉ cho việc trừ dẹp cỏ hoang vô minh, ngưỡng vọng huyền phong của Phật Tổ. Nghĩa là đoạn trừ vọng tưởng, tham cứu đến chỗ huyền diệu. Động Sơn ngữ lục (Đại 47, 507 trung) ghi: »此 去 澧 陵 攸 縣、 石 室 相 連、 有 雲 巖 道 人、 若 能 撥 草 瞻 風、 必 爲 子 之 所 重。 – Từ đây đến Lễ Lăng ở huyện Du, nơi các thất đá liền nhau có một đạo nhân tên Vân Nham. Nếu ngươi có khả năng đoạn trừ vọng tưởng, tham cứu đến chỗ huyền diệu, chắc chắn sẽ được y ta quý trọng«.
BÁT THIÊN 潑 天
Mô tả cái rất to, rất nhiều. Tiết Tây Thiền Thủ Tịnh Thiền sư trong NĐHN q. 20 ghi: »佛 祖 頂 〖⿰宁頁〗 上、 有 潑 天 大 路。 未 透 生 死 關、 如 何 敢 進 步。 – Trên đỉnh đầu của Phật Tổ, có rất nhiều đại lộ. (Nếu) chưa thấu qua ải sinh tử làm sao dám bước lên?«.
BÁT THIÊN CHÍ KHÍ 撥 天 志 氣
Mô tả chí khí rất cao, chí khí ngất trời. Tiết Thị Nghiệp Hải Tịnh Thiền sư trong MBTL q. trung: »男 子 大 丈 夫、負 一 片 撥 天 志 氣、 舍 塵 勞、 離 愛 网、 出 叢 林、 入 保 社、 單 單 爲 一 段 生 死 無 常 极 大 事。 – Bậc đại trượng phu mang một chí khí ngất trời, bỏ trần lao, lìa lưới ái, ra khỏi tùng lâm, vào bảo xã, chỉ vì một việc rất lớn là sinh tử vô thường«.
BÁT TRƯỚC TIỆN CHUYỂN 撥 著 便 轉
Một khi được thiền sư khải phát (khêu gợi), người học lập tức lãnh hội. Tiết Thị Dục Tạng Chủ trong DTNL q. 3 ghi: »你 若 是 箇 銅 頭 鉄 額 漢、 撥 著 便 轉、 如 師 子 兒 向 萬 仞 悬 崖、 一 拶 便 解 翻 身、 哮 吼 一 聲、百 獸 腦 裂、 始 有 少 分 衲 僧 氣 概。 – Nếu ngươi là hạng căn cơ linh lợi, một khi được khải phát lập tức lãnh hội, như sư tử bên vực thẳm muôn trượng, bị bức bách liền biết phóng mình, rống lên một tiếng, trăm thú đều nhức óc, mới có chút ít khí khái của nạp tăng«.
BÁT TỰ ĐẢ KHAI 八 字 打 開
Mở toang ra như hình chữ Bát(八); Không dấu diếm, che đậy. Bát-nhã trực giải, phần thứ nhất ghi:
八 字 打 開 分 付 了
更 無 餘 事 可 呈 君
»Bát tự đả khai phân phó liễu
Cánh vô dư sự khả trình quân«.
»Tất cả mở toang giao phó hết
Còn gì đâu nữa để trình anh«.
BÁT VÔ NHÂN QUẢ 撥無 因 果
Phủ định lý thuyết nhân quả báo ứng. Phật giáo cho rằng đây là một loại tà kiến; nhà thiền cho lý thuyết nhân quả báo ứng chỉ là giáo thuyết thích ứng với cơ nghi nhất thời, pháp môn phương tiện của Phật, chứ không phải pháp môn căn bản triệt ngộ. Nhưng nếu chấp cố định không nhân quả thì cũng bị xem là chấp trước vọng tâm. Bài tháp minh của Phụ Cát Tất trong MANL q. cuối ghi: »承 虛 接 響。 錯 認 話 頭。 撥 無 因 果。 生 大 我 慢。 卻 墮 邪 見。 – Tiếp lấy sự lý hư huyễn chẳng thật, lầm nhận thoại đầu, phủ định lý thuyết nhân quả báo ứng, sinh đại ngã mạn, lại rơi vào tà kiến.«
BÁT VU TRƯỚC BÍNH 鉢 盂 著 柄
Lắp thêm tay cầm vào chiếc bình bát; tỷ dụ việc làm dư thừa, phiền phức, rất đáng tức cười. Tiết Long Môn Thanh Viễn Thiền sư trong NĐHN q. 19 ghi:
缽 盂 著 柄 新 翻 樣
牛 上 騎 牛 笑 殺 人
»Bát vu trước bính tân phiên dạng.
Ngưu thượng kỵ ngưu tiếu sát nhân«.
»Bình bát thêm quai đổi kiểu mới,
Cưỡi trâu tìm trâu đáng tức cười«
BẠT BẢN 拔 本
1. Vớt vát lại tiền vốn.
2. Cứu vãn tổn thất. Bích Nham lục q. 1 ghi: »東 邊 落 節、 西 邊 拔 本。 – Bên phía đông bất lợi, bên phía tây cứu vãn tổn thất«.
BẠT TIẾT TRỪU ĐINH 拔 楔 抽 釘
Nhổ đinh tháo nêm, dụ cho việc trừ bỏ tục tình mê chướng, lóng lặng vọng tưởng. Mật Am ngữ lục ghi: »入 紅塵 堆 裏、 逆 順 界 中、 與 一 切 人 和 泥 合 水、 拔 楔 抽 釘、 令 他 不 覺 不 知、 驀 地 見 徹 本 心、 悟 其 本 性。 – Vào cõi bụi hồng, trong chốn thuận nghịch, cùng với mọi người hòa bùn hợp nước, nhổ đinh tháo nêm, khiến họ từ chỗ chẳng tỉnh chẳng biết chợt thấy suốt bản tâm, ngộ được bản tính«.
BẦN TỬ Y CHÂU 貧 子 衣 珠
Kẻ nghèo khổ cùng quẫn trên thân tự có ngọc quý, dụ chỉ chúng sinh vốn có Phật tính. Tiết Pháp Xương Ỷ Ngộ Thiền sư trong NĐHN q. 10 ghi: »祖 師 西 來 意、 特 唱 此 事。 祇 要 時 人 知 有。 如 貧 子 衣 珠、 不 從 人 得。 – Tổ sư từ phương Tây đến, đặc biệt đề xướng việc nầy, chỉ cần người đương thời biết rõ là họ giống như kẻ nghèo khổ cùng quẫn trên thân tự có ngọc quý, chẳng từ người khác mà được.«
BẤT CẬP 不 及
Không được, không bằng. Đặt sau động từ nhằm nhấn mạnh giải thích hành vi động tác không có cách hoàn thành, hoặc không có cách đạt đến mục đích. Tiết Thanh Lương Hưu Phục Thiền Sư trong NĐHN q. 8 ghi: »問: 如 何 是 學 人出 身 處? 師 曰: 千 般 比 不 得、 萬 般 況 不 及。 – Tăng hỏi: Thế nào là chỗ xuất thân của học nhân? Sư đáp: Ngàn thứ so chẳng được, muôn thứ sánh không bằng.«
BẤT DĨ NHI DĨ 不 已 而 已
Bất đắc dĩ mà làm. Tiết Ba Tiêu Kế Triệt Thiền sư trong NĐHN q. 9 ghi: »昔 日 如 來 於 波 羅 柰 國、 梵 王 請 轉 法 輪、 如 來不 已 而 已、 有 屈 宗 風。 – Ngày xưa Đức Phật ở tại nước Ba-la-nại, Phạm Vương thỉnh Phật thuyết pháp, Đức Phật bất đắc dĩ mà làm. Vì thuyết pháp về Tứ Đế thì chưa đúng với Tông chỉ của Thiền«.
BẤT DỊ 不 易
Hỏi thăm, lời nói an ủi, tương đương với »Tân khổ liễu« (vất vả quá), »Chân tân khổ« (thật là nhọc nhằn). Tiết Hoằng Nhẫn Hòa thượng trong TĐT q. 2 ghi: »師 又 去 碓 坊、 便 問 行 者: 不 易! 行 者、 米 還 塾 麼? – Sư lại đi xuống nhà giã gạo, lúc thuận tiện hỏi hành giả: Thật là nhọc nhằn! Hành giả, gạo đã trắng chưa?«
BẤT ĐA AN LẠC 不 多 安 樂
Khó ở, bị bệnh. Tiết Ngạc Châu Vô Đẳng Thiền sư trong NĐHN q. 3 ghi: »老 僧 三 兩 日 來、 不 多 安 樂。 大 德 身 邊 有 甚 麼 藥 物、 與 老 僧 些。– Hai ba bữa rày lão tăng bị bệnh, Đại đức có mang theo bên mình thuốc men gì cho lão tăng xin một ít.«
BẤT ĐẢO ĐƠN 不 倒 單
Ban đêm không ngủ, ngồi kiết già một chỗ, hoặc niệm Phật hoặc tham thiền hoặc khán thoại đầu, bất kể ngày đêm. Đây là hạnh tu thiết yếu để liễu sinh thoát tử, chóng chứng Niết-bàn.
BẤT ĐIỆT 不 迭
Không ngớt, không dứt, đặt ở sau động từ. Tiết Phù Dung Đạo Giai Thiền sư trong NĐHN q. 14 ghi: »道 我 四 事 具 足、 方 可 發 心。 祇 恐 做 手 腳 不 迭、 便 是 隔 生 隔 世 去 也。 時 光 似 箭、 深 爲 可 惜。 – Nếu nói rằng tôi phải có đủ bốn sự cúng dường rồi mới phát tâm tu hành, chỉ e làm chuyện phi pháp không dứt thì đã chết đi rồi. Thời giờ nhanh chóng tợ tên bay, thật là đáng tiếc.«
BẤT GIẢ 不 假
Không cần, không phải. Uyển Lăng lục ghi: »本 體 本 來 是 佛、 不 假 修 成 – Bản thể xưa nay là Phật, không cần tu mới thành.«
BẤT GIẢO ĐA 不 較 多
Na ná, chẳng khác mấy. Tiết Quế Sâm Thiền sư trong CĐTĐL q. 21 ghi: »師 問 僧: 什 麼 處 來? 曰: 秦 州 來… 師 却 問: 秦 州 豈 不 是 出 鸚 鵡? 僧 曰: 鸚 鵡 出 在 隴 州。師 曰: 也 不 較 多。 – Sư hỏi tăng: Từ đâu đến đây? Đáp: Từ Tần Châu đến …. Sư lại hỏi: Tần Châu há không phải là nơi có nhiều chim vẹt sao? Tăng thưa: Chim vẹt sản suất ở Lũng Châu. Sư bảo: Cũng na ná.«
BẤT HỨA DẠ HÀNH, ĐẦU MINH TU ĐÁO 不 許 夜 行 、投 明 須 到
Không cho đi đêm, trước khi trời sáng phải đến. Đây là lời nói lạ lùng mà thiền sư thường dùng. Tiết Phong Huyệt Diên Chiểu Thiền sư trong NĐHN q. 13 ghi: »問: 百 了 千 當 時 如 何? 師 曰: 不 許 夜 行、投 明 須 到。 – Hỏi: Khi đã triệt ngộ thì thế nào? Sư đáp: Ban đêm không cho đi, trước khi trời sáng phải đến«.
BẤT KHẢ TUYẾT THƯỢNG GIA SƯƠNG不 可 雪 上 家 霜
Không nên trên tuyết lại thêm sương. VMQL ghi: 雲 門 文 偃 禪師 上 堂 云 ﹕不 可 雪 上 家 霜 去 也 ! 珍 重 ! 便 下 座 。 Thiền sư Vân Môn Văn Yển thượng đường nói: “Không nên trên tuyết lại thêm sương ! Trân trọng!” Liền xuống tòa. Ý tứ câu này nhằm thể hiện nét đặc sắc bất lập ngữ ngôn văn tự của thiền tông.
BẤT KHẢ TƯ NGHỊ 不 可 思 議
Sự lý tột cùng vi diệu, không thể tưởng tượng, khó dùng lời nói để diễn đạt. Tiết Huệ Trung Quốc Sư trong TĐT q. 3 ghi: »古 德 曰: 青 青翠 竹 盡 是 眞 如、 郁 郁 黃 花 無 非 般 若。 有 人 不 許、 是 邪 說、 亦 有 人 信、 言: 「不 可 思 議」、 不 知 若 爲? – Cổ đức nói: Xanh xanh trúc biếc đều là chân như, rực rỡ hoa vàng không gì chẳng phải là Bát-nhã. Có người không chịu cho là tà thuyết, cũng có người tin, bảo là ›Bất khả tư nghị‹. Con không biết làm sao đây?«
BẤT LẠC DANH NGÔN 不 落 名 言
Chỉ thiền pháp cùng danh từ khái niệm không có gì liên hệ, chẳng thể dùng ngôn ngữ văn tự để biểu đạt. Phần »Nghệ ngôn« trong NHQL q. 29 ghi: »性 休 寂 滅、 不 落 名 言、 凡 有 指 注、 俱 乖 本 色。 – Thể tính vắng lặng không liên hệ gì đến danh từ khái niệm. Hễ có giải thích đều trái với bản sắc.«
BẤT LẠC GIAI CẤP 不 落 階 級
Không mắc kẹt vào thứ tự đẳng cấp, chỉ cho sự giác ngộ tức thì. Tiết Phù Dung Đạo Giai Thiền sư trong NĐHN q. 14 ghi: »須 知 有 一 人、 不 從 人 得、 不 受 教 詔、 不 落 階 級。 若 識 此 人、 一 生 參 學 事 畢。 – Phải biết có một người chẳng nhờ chỉ dạy mà biết, chẳng nhờ sách vở mà rõ, mà ngay đó liền giác ngộ. Có thể nói người này một đời tham học đã xong«.
BẤT LẠC HỮU VÔ 不 落 有 無
Chẳng sa vào trong nhận thức đối lập giữa hữu và vô, tức không phân biệt sự vật là hữu hay vô. Đây là phản ảnh tư tưởng »Vạn pháp nhất như« của Phật giáo. Tiết Tư Quốc Đạo Ban Thiền Sư trong NĐHN q. 8 ghi: »(僧) 問: 不落 有 無、 請 師 道。 – (Tăng) hỏi: Chẳng sa vào trong nhận thức đối lập giữa hữu và vô, thỉnh sư nói cho.«
BẤT LẠC THẦN VẪN 不 落 唇 吻
Không rơi vào môi mép. Chỉ cho muốn lãnh ngộ thiền pháp thì chẳng nên sa vào lời nói nơi cửa miệng. Tiết Long Hoa Hiểu Ngu Thiền sư trong NĐHN q. 12 ghi: »不 落 唇 吻、 一 句 作 麼 生 道? – Một câu không rơi vào môi mép làm sao nói?«
BẤT LẬP NGHĨA GIẢI 不 立 義 解
Chỉ thiền pháp vượt khỏi lời nói, ý nghĩa, không cần so sánh, giải thích. Bài tựa của Bùi Hưu trong Đoạn Tế Tâm Yếu ghi: »證 之 若 無 新 舊、 無 淺 深、 說 之 者 不 立 義 解、 不 立 宗 主、 不 開 戶 牖、 直 下 便 是、 動 念 卽 乖、 然 後爲 本 佛。 – Chứng đó, như không có mới cũ, không có sâu cạn. Nói đó, thì vượt khỏi lời nói ý nghĩa, không cần so sánh giải thích, chẳng lập tông chủ, chẳng mở cửa nẻo, ngay bản thể thì phải, động niệm liền trái, rồi sau mới là bản Phật.«
BẤT LẬP VĂN TỰ 不 立 文 字
Chỉ cho việc lấy tâm truyền tâm, chứ không dùng chữ nghĩa. Theo Ngũ Đăng Hội Nguyên, tắc 6 Vô Môn Quan, Đức Thế Tôn đem pháp môn vi diệu, chính pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, trực tiếp phó chúc cho ngài Ca-diếp qua tâm tính chứ không truyền qua kinh điển.
BẤT LIỄU BẤT ĐÁNG 不 了 不 當
Sự việc không thành tựu, phần lớn chỉ cho việc tham thiền chưa thành công. Tiết Đãi Chế Phan Lương Quý Cư sĩ trong NĐHN q. 20 ghi: »久 之 不 契、 因 訴 曰: 某 只 欲 死 去 時 如 何? 燈 (指 佛 燈 禪 師) 曰: 好 箇 封 皮、且 留 著 使 用。 而 今 不 了 不 當、 後 去 忽 被 他 換 却 封 皮、 卒 無 整 理 處。 – Đã lâu mà không khế hợp nên thưa rằng: Lúc tôi muốn chết đi thì sao. Đăng (tức Phật Đăng Thiền sư) nói: Có tấm thân tốt, hãy lưu lại để dùng. Nhưng nay việc tham thiền chưa thành công, nếu như chết đi, rốt cuộc không có chỗ thu xếp«.
BẤT LIỄU NGHĨA GIÁO 不 了 義 教
Nhà thiền lấy thiền giáo chẳng lập ngôn ngữ văn tự làm Liễu nghĩa giáo, và cho sự truyền dạy thông qua ngôn ngữ văn tự của các giáo phái khác là Bất liễu nghĩa giáo. Tiết Ngữ Chi Dư, đời thứ ba dưới Đại Giám trong CTTNL q. 2 ghi: »但 有 語 句、 盡 屬 不 了 義 教。 – Hễ có lời nói đều thuộc về Bất liễu nghĩa giáo.«
BẤT LIỄU NGHĨA GIÁO NGỮ 不 了 義 教 語
Nhà thiền đề xướng không cần chữ nghĩa lời nói biểu đạt và cho kinh điển Phật giáo là Bất liễu nghĩa giáo ngữ (Lời dạy, không phải pháp cứu cánh). Tiết Ngữ Chi Dư, đời thứ ba dưới Đại Giám trong CTTNL q. 2 ghi: »佛 出世 度 衆 生 是 九 部 教 語、 是 不 了 義 教 語。 – Phật ra đời độ chúng sinh gồm 9 bộ (thể loại) kinh điển, là lời dạy chứ không phải pháp cứu cánh.«
BẤT LY ĐƯƠNG XỨ 不 離 當 處
Chẳng rời tại chỗ. Ý nói thiền pháp gần sát chỗ bản thân mỗi người, không cần chạy đến nơi khác tìm cầu. Bài Tháp minh do Phụ Cát Tất viết trong MANL q. cuối ghi:
曹 溪 一 滴。 源 深 流 長
至 於 臨 濟。 其 道 益 張
如 擊 石 火。 如 閃 電 光
不 離 當 處。 覿 面 承 當
Giọt nước Tào Khê,
Nguồn sâu dòng dài.
Đến nơi Lâm tế,
Đạo ấy hoằng khai.
Như đá lửa nháng,
Như ánh điện bay.
Chẳng rời tại chỗ,
Trước mặt nhận ngay.
BẤT LY VỤ THỊ GIẢ 不 釐 務 侍 者
Thị giả danh dự. Tuy có chức vụ nhưng thật sự không làm nhiệm vụ thị giả. Khô Nhai Mạn lục, q. thượng ghi: »鐵 鞭 韶 禪 師 在 密 庵 處、 任 不 釐 務 侍 者 達 六 年。 – Thiền sư Thiết Tiên Thiều ở Mật Am nhận chức Bất ly vụ thị giả được 6 năm«.
BẤT MẬU 不 謬
Chẳng hổ là, không thẹn là. Chương Đan Hà Thiên Nhiên Thiền Sư trong CĐTĐL q. 14 ghi: »師 一 日 謁 忠 國 師。 先 問 侍 者: 國 師 在 否? 曰: 在 即 在 不 見 客。 師 曰: 太 深 遠 生。 曰: 佛眼 亦 鄰 不 見。 師 曰: 龍 生 龍 子 鳳 生 鳳 兒。 國 師 睡 起 侍 者 以 告。 國 師 乃 鞭 侍 者 二 十 棒 遣 出。 後 丹 霞 聞 之 乃 云:不 謬 爲 南 陽 國 師。 – Một hôm, sư đến yết kiến Quốc sư Huệ Trung. Đầu tiên hỏi thị giả: Quốc sư có ở chùa không? Đáp: Ở thì ở mà không tiếp khách. Sư nói: Thật sâu xa thay! Thị giả nói tiếp: Mắt Phật nhìn còn chẳng thấy. Sư nói: Rồng sinh rồng con, Phụng sinh phụng con. Quốc sư thức dậy, thị giả thưa lại chuyện vừa rồi, Quốc sư liền quất cho thị giả hai mươi gậy, đuổi ra. Sau đó, Đan Hà nghe việc này, liền nói: Chẳng hổ là Nam Dương Quốc sư.«
Tiết Thạch Thê Hòa thượng trong NĐHN q, 4 ghi: »一 日 見 侍者 拓 缽 赴 堂、 乃 喚 侍 者、 者 應 諾。 師 曰:「甚 處 去? 者 曰: 上 堂 齋 去。 師 曰: 我 豈 不 知 汝 上 堂 齋 去? 者 曰: 除 此 外 別 道 箇 甚 麼 ?師 曰: 我 秖 問 汝 本 分 事。 者 曰: 和 尚 若 問 本 分 事、 某 甲 實 是 上 堂 齋 去。 師 曰: 汝 不 謬 爲 吾侍 者。– Một hôm Sư thấy thị giả bưng bát đi ăn cơm, liền gọi: Thị giả! Thị giả: Dạ! Sư hỏi: Ngươi đi đâu đó? Thị giả: Đến trai đường ăn cơm. Sư bảo: Ta há không biết ngươi lên trai đường ăn cơm sao? Thị giả thưa: Ngoài điều này ra, còn hỏi gì khác? Sư bảo: Ta hỏi ngươi về việc bên trong bản thân ngươi. Thị giả thưa: Nếu Hòa thượng hỏi việc bên trong bản thân, thì chính là con đang lên trai đường ăn cơm đây. Sư bảo: Ngươi không thẹn là thị giả của ta!«
BẤT NHỊ 不 二
Đồng nghĩa với Vô Trụ. Chẳng phải cái nhị của tương đối mà cũng chẳng phải là một.
BẤT NHỊ HUYỀN CHỈ 不 二 玄 旨
Đồng nghĩa »Bất nhị pháp môn 不 二 法 門«. Minh Chơn Tụng trong PKNL q. 18 ghi: »昔 有 維 摩 大 士 示 疾 在 毘 耶 城 裏、 三 十 二 箇 菩 薩、 各 談 不 二 玄 旨、 文 殊請 問 維 摩、 維 摩 一 默 而 已。 – Thuở xưa đại sĩ Duy-ma-Cật nhuốm bệnh nằm trong thành Tỳ-da. Ba mươi hai vị Bồ Tát, mỗi mỗi nói về pháp môn bất nhị - Bồ Tát Văn-thù thưa hỏi ngài Duy-ma về vấn đề nầy, ngài chỉ một bề im lặng mà thôi.«
BẤT NHỊ PHÁP MÔN 不 二 法 門
Giáo pháp hiển bày chân lý bình đẳng tuyệt đối, vượt ra ngoài tất cả đối đãi sai biệt. Tức ngay nơi 84.000 pháp môn của Phật giáo thường nhận ra chân lý bình đẳng tuyệt đối. Phẩm Bất Nhị Pháp Môn trong Kinh Duy Ma nói có 33 cách giải thích về Bất Nhị Pháp Môn.
BẤT PHẪN 不 憤
Không phục, không chịu, ấm ức. Bích Nham lục q. 1 ghi: »法 眼 云: 監 院 果 然 錯 會 了 也。 則 (卽 監 院) 不 憤、 便 起 單 渡 江 去。 – Pháp Nhãn nói: Giám Viện quả nhiên hiểu lầm rồi! Tắc (tức Giám viện) không phục, liền từ giã thiền viện, sang sông.«
BẤT PHONG LƯU XỨ DÃ PHONG LƯU 不 風 留 處 也 風 留
Chỗ không phong lưu cũng phong lưu, có nghĩa là xem như không phong lưu, nhưng ở trong chỗ không phong lưu ẩn chứa phong cách phong lưu. Có thể xem như là chỗ lạ kỳ không hợp quy cách. Đối với thiền mà nói, chỉ có người thâm ngộ thiền đạo mới có thể hoàn thành quy tắc không hợp quy tắc. Ví như bậc thiền tăng cao đức, tuy suốt ngày an nhàn dạo chơi, nhưng có thể cần làm thì làm, cần dừng thì dừng, đây chính là chỗ không phong lưu cũng phong lưu, không phải là hành vi bắt chước được. PDNL q.trung ghi: 謝 莊 主 上 堂 云 。
一 不 做 二 不 休。
不 風 流 處 也 風 流
若 要 公 私 濟 辦
好 看 露 地 白 牛。- Cảm tạ Trang chủ. Sư thượng đường nói:
Đã làm thì làm đến chốn
Chỗ không phong lưu cũng phong lưu
Nếu muốn xong cả công tư
Trâu trắng sờ sờ hãy khán.
Theo: Bích Nham Lục
BẤT PHƯƠNG 不 妨
1. Quả thật, thật là, rất. Phó từ. Bích Nham lục q. 1 ghi: »雪 竇 到 這 裏、 不 妨 爲 人 赤 心 片 片。 – Đến chỗ nầy, Tuyết Đậu quả thật hết lòng vì người.«
2. Cố nhiên, tự nhiên, biểu thị khẳng định có điều kiện. Tiết Ứng Am Hoa Thiền sư trong GTPĐ q. 26 ghi: »雲 門 道 得、 不 妨 諦 當、 要 且 落 在 第 二 頭。 – Vân Môn nói được, cố nhiên là xác đáng, nhưng lại rơi vào nghĩa thứ hai.«
BẤT QUY 不 規
Bất định. Tiết Kiếm Môn An Phần Am Chủ trong NĐHN q. 20 ghi: »遂 徑 回 西 禪 懶 庵 迎 之、 付 之 伽 梨。 自 爾 不 規 所 寓。 後 庵 居 劍 門、 化 被 岭 表、 學 者 從 之。 – Sư liền theo đường tắt trở về Tây Thiền. Lại Am ra đón sư trao cho y Tăng-già-lê. Sư theo ý mình không ở nơi nào nhất định. Về sau cất am ở Kiếm Môn, sư giáo hóa bao trùm Linh Biểu, được người học nghe theo.«
BẤT TÀI TỊNH 不 才 淨
Còn gọi: Bất tài bất tịnh. Thiền tông dùng từ này để chỉ cho ngôn ngữ văn tự bình thường là lời nói chết, câu chết, chỉ gây thêm rối rắm. Phần Thị Chúng trong Lâm Tế lục (Đại 47, 502 thượng) ghi: »大德、 山 僧 今 時 事 不 获 已、 話 度 說 出 許 多 不 才 淨。 尔 且 莫 錯。 – Đại dức! Hôm nay, Sơn tăng cực chẳng đã mới nói ra lắm lời rối rắm, các ngươi chớ lầm«.
BẤT THẨM 不 審
1. Chẳng biết. Tào Khê Đại Sư Biệt truyện ghi: »不 審 和 尚 初 付 囑 時、 更 有 何 言 教? 愿 垂 指 示。 – Lúc ban đầu phó chúc, chẳng biết Hòa thượng còn có dạy lời gì? Con cúi mong được Ngài chỉ bảo«.
2. Còn gọi: Vấn tấn. Nghĩa là: Chào thầy. Tiết Tiệm Nguyên Trung Hưng Thiền sư trong NĐHN q. 5 ghi: »師 後 住 漸 源。 一 日 在 紙 帳 內 坐、 有僧 來 拔 開 帳 曰: 不 審! – Về sau, sư trụ Tiệm Nguyên. Một hôm Sư đang ngồi trong trướng, có vị tăng đến vén màn nói: Chào thầy!«.
BẤT THỊ TÂM, BẤT THỊ PHẬT, BẤT THỊ VẬT 不 是 心、 不 是 佛、 不 是 物
Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật. Ý nói đạo pháp không thể nói, siêu việt tất cả danh từ khái niệm. Thuật ngữ này là cách nói khác đi của cụm từ »Tức tâm tức Phật«. Vô Môn Quan ghi: »南 泉 和 尚 因 僧 問 云: 還 有不 與 人 說 底 法 麼? 泉 云: 有。 僧 云: 如 何 是不 與 人 說底 法? 泉 云: 不 是 心、 不 是 佛、 不 是 物。 – Nhân có vị tăng hỏi Hòa thượng Nam Tuyền rằng: Còn có pháp gì đừng nên nói cho người chăng? Nam Tuyền bảo: Có. Tăng thưa: Pháp đừng nên nói cho người là pháp gì? Tuyền bảo: Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật.«
BẤT THIỆP GIAI THÊ 不 涉 階 棲
Còn gọi: Bất lịch giai thê. Thiền pháp chỉ thẳng tâm người, lập tức giác ngộ, không có đẳng cấp thứ lớp. Mật Am ngữ lục ghi: »祖 師 門下、 直 截 省 要、 不 歷 階 梯、 立 地 成 佛。 – Khai thị thiền nhân Bính rằng: Hàng đệ tử Tổ sư dứt khoát tỉnh ngộ, không trải qua thứ lớp, lập tức thành Phật«.
Vô Môn Quan ghi: »劍 刃 上 行、冰 棱 上 走、 不 涉 階 棲、 懸 崖 撒 手。 – Đi trên kiếm bén, chạy trên băng mỏng, chẳng trải qua thứ lớp, buông tay nơi vực thẳm«.
BẤT THIỆP TRÌNH ĐỒ 不 涉 程 途
Không can hệ đến quá trình tu tập tiến triển dần dần trong việc tỏ ngộ Thiền. Thư đáp Trịnh Côn Nham Trung Thừa trong HSLNMDT q. 1 ghi: »要 之、 佛 祖 向 上 一 路、 不 涉 程 途、 其 在 初 心 方 便、 也 須 從 者 里 透 過 始 得。 – Tóm lại, Thiền pháp vi diệu của Phật Tổ không can hệ đến quá trình tu tập tiến triển dần dần. Chỗ này là chỗ tu tập, cần phải từ chỗ này thấu qua«.
BẤT THỈNH 不 請
Xin đừng, không cần phải. Minh Giác ngữ lục, q. 2 ghi: »他 後 見 別 處長 老、 學 士 不 請 舉 向 伊。 – Sau nầy có gặp các bậc Trưởng lão ở nơi khác, xin Học sĩ đừng giới thiệu ông ấy.«
BẤT THUỘC TIỆM THỨ 不 屬 漸 次
Ý nói thiền pháp cần lập tức lãnh ngộ, không cần phải từ từ tu hành, trong ấy cũng không có trình tự thứ lớp. Uyển Lăng lục ghi: »祖 師直 指、 一 切 衆 生 本 心 本 體 本 來 是 佛、 不 假 修 成、 不 屬 漸 次。 – Tổ sư chỉ thẳng bản tâm bản thể của tất cả chúng sinh xưa nay là Phật, chẳng nhờ tu hành mới thành, không cần phải từ từ, cũng không có trình tự, thứ lớp.«
BẤT THUYẾT THUYẾT, BẤT VĂN VĂN 不 說 說、 不 聞 聞
Chẳng nói mà nói, chẳng nghe mà nghe. Chỉ cho việc tiếp nhận pháp Thiền không phải nơi tai mà là ở nơi tâm. Mật Am ngữ lục ghi: »諸 佛 不 說 說、 祖 師 不 聞 聞、 下 一 轉 語 千 古 透 乾 坤。 – Chư Phật chẳng nói mà nói, Tổ sư chẳng nghe mà nghe, để lại một chuyển ngữ, ngàn đời trấn giữ trời đất«.
BẤT THỨC LÔ SƠN CHÂN DIỆN MỤC 不 識 盧 山 眞 面 目
Thành ngữ này bắt nguồn từ bài thơ »Đề Tây lâm bích« của Tô Thức, nhà thơ đời Tống. Toàn bài thơ miêu tả tác giả đi chơi cảnh núi Lô, đứng ở các vị trí khác nhau mà nhìn cảnh núi này. Do núi Lô suốt năm mây mù bao phủ, hơn nữa, tác giả đứng ở trong núi không sao nhìn thấy toàn cảnh Lô Sơn, do đấy mới cảm khái thốt lên: »橫 看 成 嶺 側 成 峰 處 處 高 低 各 不 同 不 識 廬 山 眞 面 目 只 猶 身 在 此 山 中。 – Trông ngang thành dãy, xéo thành tòa, nơi nơi cao thấp khác nhau xa, chẳng biết Lô Sơn toàn cảnh thật, chỉ do thân ở núi non này«.
Tô Thức tức Tô Đông Pha từng kết bạn với thiền sư Phật Ấn ở Vân Cư và về già, ông để tâm nghiên cứu kinh Phật – phải chăng họ Tô có ngụ Thiền ý trong bài thơ?
Theo Thiền tông, bài thơ nhằm diễn tả tình huống của một người bị mê hoặc bởi hiện tượng bề ngoài, không nhận thức rõ bản chất của sự vật.
BẤT TÍCH MY MAO 不 惜 眉 毛
Chẳng tiếc lông mày. Ý nói không tiếc lời nói và bất chấp bị trừng phạt. Tiết Huệ Lâm Tông Bản Thiền sư trong NĐHN q. 16 ghi: »山 僧 今 日 不 惜 眉 毛、 與 汝 諸 人 說 破。 – Hôm nay Sơn tăng không tiếc lời nói và bất chấp bị trừng phạt, sẽ nói toạc ra cho ông biết«.
BẤT TIỄN GIAI THÊ 不 踐 階 梯
Không theo cấp bậc (của cây thang), dụ chỉ không cần trải qua các cấp giai vị trung gian mà trực tiếp lãnh ngộ thiền pháp. Bài tựa của Dương Ức trong CĐTĐL ghi: »不 立 文 字、 直 指 心 源、 不 踐 階 梯、 徑 登 佛 地。 – Chẳng lập văn tự, chỉ thẳng nguồn tâm, không theo cấp bậc, thẳng lên đất Phật.«
BẤT TÍN ĐẠO 不 信 道
Nói mà không chịu tin. Tắc 8, Bích Nham lục (Tục 117,137, thượng) ghi: »不 信 道 不 妨 奇 特。 若 是 恁 麼 人 方 解 恁 麼道。 – Nói mà không chịu tin đây quả là kì đặc. Nếu là người như thế mới biết nói như thế«.
BẤT TRANH ĐA 不 爭 多
Xấp xỉ, chẳng khác mấy. Tiết Linh Yểm Hòa thượng trong CĐTĐL q. 23 ghi: Tăng hỏi: »僧 問: 己 事 非 明、 以 何 爲 驗? 師 曰: 木 鏡 照 素 容。 曰: 驗 後 如 何? 師曰: 不 爭 多。 – Việc mình không sáng, lấy cái gì để nghiệm? Sư bảo: Gương gỗ chiếu hình rỗng. Hỏi: Sau khi nghiệm thế nào? Sư đáp: Chẳng khác mấy.«
BẤT TRIỆT 不 徹
1. Không ngừng, không dứt. Đặt sau động từ, bổ sung cho hành vi hoặc động tác cần giải thích. Như Tịnh ngữ lục q. thượng ghi: »杜 鵑 啼 不 徹、 血 流 山 竹 裂。 – Chim quốc kêu không dứt, máu chảy tre núi nứt«.
2. Không bằng, không kịp. Đặt sau động từ, nhấn mạnh hành vi không có cách gì để hoàn thành. Tiết Hương Nghiêm Hòa thượng trong TĐT q. 19 ghi: »急 著 力、 勤 嚙 齒、 無 常 到 來 救 不 徹。 – Mau ra sức, gắng chịu đựng, vô thường đến rồi cứu không kịp«.
BẤT TRỤ BÁI 不 住 拜
Lễ bái không dừng. theo Thiền Lâm Tượng Khí Tiên, khi đã được thầy ấn chứng, vị đệ tử luôn lễ bái không dừng, nghĩa là lạy từ ba lạy đến trăm nghìn lạy, ứng hợp với lối lễ lạy thông thường của Phật Tổ.
BẤT TRÚNG 不 中
Không đúng, không hợp. Chương Nam Nhạc Hoài Nhượng trong CĐTĐL q. 5 ghi: »祖 問: 甚 處 來? 師 曰: 嵩 山 來。 祖 問: 什 麼 物 恁 麼 來? 師 曰: 道 相 似 一 物 卽 不 中。 – Tổ hỏi: Từ đâu đến? Sư đáp: Từ Tung Sơn đến! Tổ hỏi: Vật gì đến như thế? Sư đáp: Nói giống một vật thì chẳng đúng.«
Tiết Đầu Tử Nghĩa Thanh Thiền sư trong NĐHN ghi: »(圓 通 禪 師) 卽 曳 杖 入 堂、 見 師 正 睡、 乃 擊 床 呵 曰: 我這 裏 無 閑 飯 與 上 座 吃 了 打 眠! 師 曰: 和 尚 教 某 何 爲? 通 曰: 何 不 參 禪? 師 曰: 美 食 不 中 飽 人 吃。 – (Thiền sư Viên Thông) liền xách gậy vào tăng đường, thấy sư đang ngủ, liền gõ vào giường, quở rằng: Ở đây, ta không có dư cơm để cho Thượng tọa ăn no rồi ngủ! Sư thưa: Hòa thượng dạy tôi làm gì? Thông nói: Sao chẳng tham thiền đi? Sư đáp: Thức ăn ngon chẳng hợp với người no bụng.«
BẤT TRƯỚC THÁNH PHÀM 不 著 聖 凡
Không dính vào kiến giải phân biệt đối đãi bực Thánh với kẻ phàm. Đây là phản ánh tư tưởng »Vạn pháp nhất như« của Phật giáo. Trấn Châu Đại Bi Hòa thượng trong NĐHN q. 11 ghi: »不 著 聖 凡、請 師 答 話。 – Chẳng dính vào kiến giải phân biệt bậc Thánh với kẻ phàm, thỉnh Sư đáp cho«.
BẤT TRƯỚC THỊ PHI 不 著 是 非
Còn gọi: Bất lạc thị phi. Đối với sự vật không phân biệt phải và chẳng phải. Tiết Song Phong Cổ Thiền sư trong NĐHN q. 9 ghi: »僧 問: 和 尚 當 時 辭 石 霜、石 霜 恁 麼 道、 意作 麼 生? 師 曰: 只 教 我 不 著 是 非。 – Tăng hỏi: Ngay lúc Hòa thượng giã từ Thạch Sương, Thạch Sương nói thế ấy, ý thế nào? Sư nói: Chỉ là dạy ta bất trước thị phi«.
BẤT TRƯỚC TIỆN 不 著 便
Chẳng được tiện lợi, chẳng gặp may, xui xẻo, không hợp thời cơ. Lâm Tế ngữ lục ghi: »師 到 金 牛、 牛 見 師 來、 橫 按 拄 杖 當 門 踞 坐。。。 師 便 打、 牛 作 倒勢、 師 又 打、 牛 云: 今 日 不 著 便。 – Sư đi đến Kim Ngưu, Ngưu thấy sư đến liền đặt gậy nằm ngang rồi ngồi xổm ngay cửa… sư bèn đánh, Ngưu làm bộ té ngã. Sư lại đánh, Ngưu nói: Hôm nay xui xẻo«.
BẤT TƯ THIỆN, BẤT TƯ ÁC 不 思 善 不 思 惡
Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác. Thiện ác trong đây không phải thiện ác trên đạo đức, mà là nhận thức hoàn toàn gạt bỏ cách nhìn tương đối. Thiền giả cho rằng do hai thứ kiến giải đối lập dễ sinh ra mê lầm, do đó cần phải gạt bỏ nhận thức tương đối mà theo đuổi một nhận thức tuyệt đối. Kinh Pháp Bảo Đàn (Đại 48, 349 trung) ghi: »能 云: 不 思 善、 不 思 惡。 正 與 麼 時、 那 箇 是 明 上 座 本 來 面 目? – Huệ Năng nói: Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính lúc đó cái gì là mặt mũi xưa nay của Thượng tọa Minh?«.
Câu “ chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác” cũng giống như câu “ Trước khi cha mẹ sinh ra ta” hoặc “ Trước khi trời đất chưa phân”.
Theo: Lục Tổ Đàn Kinh
BẤT TỪ 不 辭
Không quản ngại, không từ chối. Phần lớn nằm ở phân câu phía trước trong câu phức chuyển chiết. Tiết Đại Dương Cảnh Huyền Thiền sư trong NĐHN q. 14 ghi: »道 卽 不 辭、 恐 上 紙 筆。 – Sư bảo: Nói thì không quản ngại, chỉ e còn trên giấy bút.«
BẤT TỨC LƯU 不 唧 〖⿰口留〗
1. Không thể dùng được, không thu hoạch. Vân Môn quảng lục, q. hạ ghi: »因 普 請 般 米 了、 坐 次 云: 近 日 不 唧〖⿰口留〗 只 担 得 一 斗 米、 不 如 快 脫 去! – Nhân thỉnh đại chúng làm việc công cộng như khuân vác gạo thóc, Tọa chủ nói: Gần đây không thu hoạch, chỉ khuân được một đấu gạo, chẳng bằng mau buông xuống đi!«.
2. Ngây ngô. Trung Phong quảng lục q. 4 ghi: »棒 頭 領 旨、 喝 下 明 宗、 已 是 第 一 等 不 唧 〖⿰口留〗 底 鈍 漢。 – Ngay đầu gậy lãnh hội ý chỉ, nơi tiếng hét thấu rõ tông chỉ, đây đã là kẻ ngây ngô đần độn hạng nhất.«
BẤT TƯƠNG VI SỰ 不 相 爲 事
Chẳng muốn làm việc (Tham thiền). Đoạn Tế Tâm Yếu ghi: »若 不 將 爲 事、 受 殃 有 日 在。 故 云: 著 日 今 生 須了 却、 誰 能 累 劫 受 余 殃? – Nếu chẳng muốn tham thiền thì có ngày bị tai ương! Cho nên nói: Ngày nay nỗ lực cho liễu ngộ, ai là người chịu tai ương trong nhiều kiếp?«.
BẤT VONG THIỀN 不 忘 禪
Loại thiền định luyện tập trí nhớ. Kinh Xá-lợi-phất vấn ghi: »阿 難 修 不 忘 禪、 得 佛覺 三 昧。 – A-nan tu thiền định luyện tập trí nhớ, được Phật giác tam-muội«.
BẤT VÔ 不 無
Chẳng phải không. Đặt ở cuối phân câu phía trước trong câu phức chính phụ, biểu thị quan hệ chuyển ý, khẳng định có điều kiện. Pháp Diễn ngữ lục q. trung ghi: »二 十 五 年 坐 這 曲 彔 木 頭 上。 舉古 舉 今 則 不 無。 秖 是 未 曾 道 著 第 一 句。 – Hai mươi lăm năm ngồi giường dây (làm trụ trì) nói về chuyện xưa, chuyện nay thì chẳng phải không, có điều là chưa từng nói đến câu thứ nhất (Đệ nhất cú).«
BẤT VŨ HOA DO LẠC, VÔ PHONG NHỨ TỰ PHI 不 雨 華 猶 落 無 風 絮 自 飛
Không mưa hoa vẫn rơi, không gió tơ tự bay. Câu này nói về sự vô thường, mọi người đều biết đóa hoa xơ xác là do gió mưa, nhưng thật ra lúc hoa đồng thời nở rộ cũng đã tiến đến sự tàn tạ. Nguyên nhân tàn rụng thật sự ở bên trong, mưa gió chẳng qua là trợ duyên ( ảnh hưởng gián tiếp ) mà thôi.
Theo: Hòe An Quốc Ngữ
BẤT Ý 不 意
Không đồng ý, không chịu, ấm ức. Tông Môn Võ Khố ghi: »保 寧 勇 禪 師、 四 明 人、 初 更 衣 依 雪 竇 顯 禪 師 同 道。 雪 竇 呵 爲夬 庠 座 主。 勇 不 意。 堂 儀 纔 滿、 卽 抽 單、 望 雪 竇 山 拜 曰: 我 此 生 行 脚 參 禪、 道 價 若 不 過 雪 竇、 定 不 歸鄉。 – Thiền sư Bảo Ninh Dũng, người Tứ Minh. Ban đầu sư thay y phục đến nương bạn đồng đạo là thiền sư Tuyết Đậu Hiển. Tuyết Đậu quở sư là tọa chủ ỉu xìu. Dũng không chịu, cứ ấm ức. Nghi thức thượng đường vừa mãn, sư liền rời khỏi thiền viện, hướng về núi Tuyết Đậu lễ bái, thề rằng: Đời này hành cước tham thiền, nếu tôi tiếng tăm về đạo pháp không bằng Tuyết Đậu, nhất định không trở về quê.«
BẾ NHÃN TÁC DẠ 閉 眼 作 夜
Nhắm mắt lại rồi cho đó là màn đêm, chỉ cho hành vi ngu ngốc tự lừa dối. Chương Nguyên Nghiễm Thiền sư trong CĐTĐL q. 19 ghi: »問: 久 處 暗室、 未 遠 其 源、 今 日 上 來、 乞 師 一 接。 師 曰: 莫 閉 眼 作 夜 好。 – (Tăng) hỏi: Lâu nay ở trong thất tối, chưa đạt cội nguồn hôm nay đến đây xin Thầy tiếp cho. Sư bảo: Đừng nhắm mắt lại rồi cho đó là màn đêm nhé!«
BẾ QUAN 閉 關
Sau khi ngộ rồi (phá được trùng quan), muốn bảo nhậm bản lai diện mục nên mới cần phải bế quan (đóng cửa yên tu). Bài 8 trong Sơn Cư Bách Vịnh của Thiền sư Tông Bản ghi:
»山 居 茅 瓦 竹 爲 椽
守 道 安 貧 樂 自 然
盡 日 閉 關 無 別 事
長 伸 兩 脚 枕 雲 眠«
»Sơn cư mao ngõa trúc vi duyên
Thủ đạo an bần lạc tự nhiên
Tận nhật bế quan vô biệt sự
Trường thân lưỡng cước chẩm vân miên«.
»Ở non tre lá kết am thiền
Cam nghèo giữ đạo thật an nhiên
Đóng cửa suốt ngày không việc khác
Gối đầu, duỗi cẳng ngủ bình yên«.
BỆNH HẠ 病 暇
Còn gọi: Bệnh giả
Nghỉ bệnh. Trong thiền lâm, phép xin nghỉ dưỡng bệnh gọi là bệnh hạ. Huyễn Trụ Thanh Quy ghi: 忽 遇 病 緣,宜 白之 公 界,移 單 屛 處(…)病 或 少 間,當 具 威 儀 謝値 病人,歸 堂 參 暇。Nếu thấy nhuốm bệnh thì tác bạch giữa đại chúng xin dời đơn về liêu khám bệnh (…). Sau một thời gian ngắn trị bệnh, phải hết lòng cảm ơn người trị bệnh, sau đó mới về phòng nghỉ ngơi.
BỆNH TĂNG KHẨU TỪ 病 僧 口 詞
Di ngôn của vị tăng bệnh sắp thị tịch. Trong tùng lâm, khi bệnh tình của vị tăng ngày càng nặng e khó sống, lúc sắp mạng chung nói lời di chúc gọi là Bệnh tăng khẩu từ. Khẩu từ này phần đông các bệnh tăng nói về dòng dõi quê quán của mình, người ghi chép phải ghi chép hết thảy những gì được dặn dò về cách chỉnh lý, xử trí để làm bằng. Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BỆNH TĂNG NIỆM TỤNG 病 僧 念 頌
Còn gọi: Bệnh tăng giải thích. Tụng niệm để hồi hướng công đức cầu nguyện cho vị tăng bị bệnh. Trong tùng lâm, khi có một vị tăng bệnh nặng, nếu trên ba ngày không bớt thì phải dời vị ấy qua Diên thọ đường (nơi chăm lo trị bệnh và dưỡng bệnh). Lúc ấy, các vị tăng đồng hương quen biết cũ và cả chúng vì vị tăng bệnh ấy mà cầu nguyện cho bệnh nhân mau lành. Mọi sự niệm tụng, tán Phật, hồi hướng này gọi là Bệnh tăng niệm tụng. Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di
BÍ MẬT 秘 密
Thiền pháp sâu kín khó hiểu, chẳng rơi vào ngôn ngữ văn tự, vượt khỏi ý thức phân biệt. Cách nói này biểu thị sắc thái tôn giáo thần bí của Thiền. Lâm Tế ngữ lục ghi: »無 形無 相、 無 根 無 本、 無 住 處、 活 潑 潑 地、 應 是 萬 種 施 設、 用 處 只 是 無 處。 所 以 覓 看 轉 遠、 求 之 轉 乖、 號之 爲 秘 密。 – Không hình không tướng, không gốc không rễ, không chỗ trụ, thật là linh hoạt: ứng ra muôn thứ lập bày, chỗ dùng chỉ là không có chỗ. Thế nên tìm đó thì càng xa, cầu đó thì càng trái, gọi đó là Bí mật«.
BÌ ĐẠI 皮 袋
Tức là chỉ cái thân thịt. Thân thể này như cái túi da, chứa đựng tất cả thịt xương, ngũ tạng v.v… nên còn gọi là Xú bì đại (túi da thối), Xú bì nang (đãy da hôi). Tắc 18, Thung Dung lục (Đại 48, 238 trung) ghi: »僧 問 趙 州: 狗 子 還 有 佛 性 也 無? 州 云: 有。 既 有 爲 甚 麼 却 撞 入 這 箇皮 袋? – Tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tính không? Châu đáp: Có. Tăng hỏi: Đã có, tại sao còn chui vô cái túi da?«.
BÌ HẠ HỮU HUYẾT 皮 下 有 血
Có tâm huyết, có khí phách. Mật Am ngữ lục ghi: »若 是 大 丈 夫 漢、 皮 下 有 血、 終 不 喫 別 人 殘 羹 餿飯、 直 下 自 家 竪 起 脊 梁。 如 銀 山 鐵 壁、 於 一 切 善 惡 逆 順 境 界 中、 搖 撼 不 動。 – Nếu là bậc đại trượng phu có khí phách không bao giờ ăn cơm thừa canh cặn của người khác, ngay tức thì tự mình phấn chấn tinh thần, lập định chí hướng giống như núi bạc vách sắt, ở trong tất cả cảnh giới thiện ác, thuận nghịch không hề lay động«.
BÌ HẠ VÔ HUYẾT 皮 下 無 血
Không có tâm huyết, không có khí phách. Tông Môn Võ Khố ghi: »誣 誷 先 聖、 聾 瞽 後 昆、眼 裏 無 筋、 皮 下 無 血 之 流、 隨 例 顛 倒、 恬 然 不 覺、 眞 可 怜 憫。 – Bọn người gièm pha tiên thánh, làm mù điếc con cháu, không năng nổ, không có khí phách, thuận theo thói quen điên đảo, thờ ơ chẳng tỉnh, thật đáng thương xót!«.
BÌ XÁC LẬU TỬ THIỀN 皮 殼 漏 子 禪
Còn gọi: Bì khả lậu tử thiền, Thiền pháp tự tại. Bì xác lậu tử đồng nghĩa với Bì đại (túi da), dụ cho sự không vỡ, cứng chắc. Xác là vỏ trứng, dụ cho thân xác con người. Lậu là tiết ra phân, nước tiểu. Tắc 98, Bích Nham lục (Đại 48, 222 thượng) ghi: »若 要 活 潑 潑 地、 但 參皮 殼 漏 子 禪、 直 向 高 山 上 撲 將 下 來、 亦 不 破、 亦 不 壞。 – Nếu muốn được hoạt bát, chỉ tham Bì xác lậu tử thiền, leo thẳng lên núi cao té xuống, cũng không bể, cũng không hư«.
BỊ VỊ 被 位
Chỗ ngủ nghỉ riêng của mỗi vị tăng trong Tăng đường thuộc tự viện Thiền tông. Bị là bị đơn, Miên đơn, vốn chỉ cho chiếc chiếu dùng vào việc ngủ nghỉ hoặc tọa thiền. Ngoài ra, vị trí ngồi lúc thọ thực gọi là Bát vị. Bát là vật dụng đựng thức ăn. Trong tùng lâm, thông thường Bát vị (chỗ ngồi ăn) có để tên, nhưng Bị vị thì không.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di
BÍCH ĐỊNH 壁 定
Định như tường vách; ác giác dụ như gió. Bích định kiên cố nên 8 gió (lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc) chẳng xâm nhập được.
BÍCH GIÁC LẠC ĐẦU 壁 角 落 頭
Chốn hoang vu hẻo lánh; xó xỉnh. Tiết Thị Bản Sắc Đạo Nhân trong MBTL q. trung ghi: »本 色 道 人 既 無 父 母 之 奉、 妻 子 之 養、征 役 之 勞、 口 體 之 費、 單 單 一 条 性 命、 最 先 要 與 之 拈 向 壁 角 落 頭、 只 有 箇 要 了 生 死 底 心。 – Thiền tăng chân chính đã không phụng dưỡng cha mẹ, không nuôi nấng vợ con, không nhọc nhằn vì quân dịch, không tốn tiền của để nuôi thân miệng, chỉ còn có tính mạng của mình. Việc cần làm trước hết là tìm một chỗ hẻo lánh để giải quyết vấn đề sinh tử«.
BÍCH LẠC 壁 落
Tường vách, hàng rào. Chương Phần Châu Vô Nghiệp Thiền sư trong CĐTĐL q. 8 ghi: »黃 金 爲 世 界、 白 銀 爲 壁 落、 此 是 什麼 人 居 處? – Vàng làm thế giới, bạc làm tường vách, đây là chỗ của người nào ở?«.
BÍCH LẬP VẠN NHẪN 壁 立 萬 仞
Vách đứng muôn trượng. Hình dung khí khái cùng cảnh giới thấy rõ tự tâm, tự ngã là chủ, hoàn toàn không nương tựa, siêu thoát trần tục. Tiết Khai thị cho Thiền nhân Quang trong MANL ghi: »衲 僧 家、 十 二 時 中、 行 住 坐 臥、 如 火 燒 冰、 莫 誇 少 壯、 休 論 老 成、 一 處 錯 踏 翻、 千 處 百 處 一 時透、 如 獅 子 王 吒 沙 地 哮 吼 一 聲、 壁 立 萬 仞、 豈 不 慶 快 平 生! – Hàng thiền tăng trong 24 giờ đi đứng nằm ngồi như lửa đốt băng. Chớ khoe tráng niên, đừng luận lão thành, một chỗ thấu thì ngàn chỗ muôn chỗ đồng thời thấu, như sư tử chúa đuôi dựng đứng rống một tiếng, như vách đứng muôn trượng, há chẳng thư thái cả đời sao!«
BÍCH NHÃN HỒ TĂNG碧眼 胡 僧
Còn gọi: Bích Nhãn, Bích Nhãn Hồ.
Từ chỉ chung cho các vị tăng xứ Tây vực. Trong thiền lâm từ này dùng để gọi riêng sơ tổ Đạt-ma. Tắc 42, BNL ghi:直饒 是 碧 眼 胡 僧 也 難 辨 別,碧 眼 胡 僧 尙 難 辨 別,更教山僧說箇什麼?Dẫu cho Bích Nhãn Hồ tăng cũng khó mà phân biệt. Tổ Đạt-ma còn khó phân biệt thì còn bảo sơn tăng nói cái gì?
BÍCH QUÁN 壁 觀
Ngồi xoay mặt vào vách, quán tâm như vách, để mọi suy tư lắng đọng, xả vọng về chân. Bài tựa sách »Lược biện Đại thừa nhập đạo tứ hạnh« của Đàm Lâm trong CĐTĐL q. 30 ghi: »此 是 大 乘 安 心 之 法、令 無 錯 謬、 如 是 安 心 者 壁 觀、 如 是 發 行 者 四 行。 – Đây là pháp an tâm của Đại thừa khiến cho không có sai lầm, an tâm như thế là Bích quán, phát hạnh như thế là Tứ hạnh«.
BIẾM BÁC 貶 剝
Phê bình, bác bỏ. Lâm Tế ngữ lục ghi: »一 切 時 中、 莫 亂 斟 酌。 會 與 不 會、 都來 是 錯。 分 明 與 麼 道、 一 任 天 下 人 貶 剝。 – Trong tất cả thời, chớ loạn thương lượng. Hội cùng chẳng hội, thảy đều là lầm lẫn. Rõ ràng nói thế ấy, mặc cho người trong thiên hạ bác bỏ«.
BIẾN THAM 遍 參
Chỉ tăng lữ đi khắp nơi tham học với thiện tri thức để thêm sự hiểu biết cho mình (xét thấu mê với ngộ, chân với vọng của việc lớn sinh tử).
BIỂN CỤC 褊 局
Nhỏ hẹp, hẹp hòi Bích Nham lục q. 1: »褊 局 之 量、 自 不 堪 任、 竞 起 害 心、 敷 加 毒 葯。 – Khí lượng hẹp hòi tự mình không chịu đựng nổi, tranh nhau hãm hại, nhiều lần đánh thuốc độc«.
BIỂN KHÁNH 扁 罄
Một loại pháp khí làm bằng đá, hình thể giống như hình đám mây, treo ở ngoài hành lang Phương trượng. Nếu có khách đến muốn gặp thầy Trụ trì, vị Tri khách liền đánh biển khánh 3 tiếng.
BIỆN 辦
1. Chuẩn bị, thu xếp. Chương Tổ 13, Ca-tỳ-ma-la trong CĐTĐL q. 2 ghi: »汝 雖 心 語、 吾 已 意 知、 但 辦 出 家、 何 慮 吾 之 不 聖? – Dù cho ngươi không nói, ta đã biết rồi. Cứ chuẩn bị xuất gia đi, lo gì ta chẳng phải thánh?«
2. Hoàn thành, thành công. Bài thơ »Tự thuật chân tán« trong PDNL q. hạ ghi: »現 成 公 案、 無 事 不 辦。 – Công án sẵn sàng ngay trước mắt, không việc gì chẳng hoàn thành.«
BIỆN 辨、 弁
Phân biệt. Tiết Hoàng Bá Hòa thượng trong TĐT q. 6 ghi: »若 有 此 眼 腦、 不 妨 弁 得 邪 正 宗 儻。 – Nếu có con mắt trí huệ này, quả tình phân biệt được tông đảng tà chính.«
BIỆN ĐẠO 辦 道
1. Làm xong đạo nghiệp. Đồng nghĩa với Thành biện. Thiền tông vào đầu đời Đường chưa có danh từ Biện đạo. Đến giữa đời Đường, sau khi Ngũ gia thất tông hình thành thì danh từ này được sử dụng rộng rãi. Chương Quốc sư Đại Đạt Vô Nghiệp trong CĐTĐL (Đại 51, 444 hạ) ghi: »且 圖 什 麼? 兄 弟 只 爲 貪 欲 成 性。 二 十 五 有 向 腳 跟 下 繫 著、 無 成 辦 之 期。 – Lại mưu toan cái gì? Các huynh đệ chỉ vì tham dục thành tính nên bị 25 hữu trói buộc, không biết lúc nào đạo nghiệp mới xong«.
2. Chỉ cho sự tu hành theo lối tọa thiền.
BIỆN ĐÍCH 辨 的
Làm cho rõ ràng, phân biệt rõ. Tiết Hoàng Long Tổ Tâm Thiền sư trong NĐHN q. 17 ghi: »一 漚 未 發、 古 帆 未 征、 風 信 不 來、 無 人 擧 棹、 正 當 恁 麼 時、 水脉 如 何 辨 的? – Hòn bọt chưa nổi, buồm xưa chưa giương. Chiều gió chẳng đến không có người giở chèo. Việc cần làm khi ấy là làm sao phân biệt rõ được luồng nước?«.
BIỆN HUỆ 辨 慧
Có tài biện luận. Khả năng khéo giảng nói nghĩa của các pháp. Chương Bát-nhã Đa-la trong CĐTĐL q. 3 ghi: »此是 世 寶、 未 足 爲 上、 於 諸 寶 中、 法 寶 爲 上; 此 是 世 光、 未 足 爲 上。 於 諸 光 中、 智 光 爲 上; 此 是 世 明、 未足 爲 上、 於 諸 明 中、 心 明 爲 上。。。 尊 者 歎 其 辨 慧。 – Đây là của báu thế gian chưa đủ làm tột, trong các thứ báu chỉ có pháp bảo là tột. Đây là ánh sáng của thế gian chưa đủ làm tột, trong các thứ ánh sáng chỉ có ánh sáng trí huệ là tột. Đây là trong sạch của thế gian chưa đủ làm tột, trong các thứ trong sạch chỉ có tâm trong sạch là trên hết… Tôn giả khen ngợi tài biện luận của Bồ-đề-đa-la«.
BIỆN HƯƠNG 瓣香
Còn gọi: Nhất biện hưong, Hương nhất biện.
Nén hương, thẻ hưong.
Nén hương xông có hình dạng như miếng dưa leo, dẹp như tấm thẻ, được gọi là biện hương. STBTTQ quyển 1 ghi:淨 下 土 之 祲 氛,
庸 致 瓣 香 之 誠
Xua tan khí xấu trên mặt đất, Chí thành dâng lên một thẻ hương.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di
BIỆN SỰ 辨 事
Tên gọi chung cho ban Chức sự trong Thiền lâm như: Liêu nguyên, Liêu chủ, Phó liêu, Diên thọ đường chủ, Tịnh đầu, Hóa chủ, Viện chủ, Ma chủ, Thủy đầu, Thán đầu, Trang chủ, Giám thu v.v…
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BIỆT NGỮ 別 語
Trong công án được nêu ra đã có lời ứng đối, Thiền sư lại có thêm một lời đáp khác. Tiết Thụy Lộc Bản Tiên Thiền sư trong NĐHN q. 10 ghi: »大 凡 參 學、 未 必 學 問 話 是 參 學、 未 必 學 揀 話 是參 學、 未 必 學 代 語 是 參 學、 未 必 學 別 語 是 參 學。 – Nói chung về việc tham học: Không hẳn là học hỏi, không hẳn là học phân biệt bình luận công án, không hẳn là học đại ngữ (nói thay), không hẳn là học biệt ngữ«.
BIỆT THỊ NHẤT CÀN KHÔN 別 是 一 乾 坤
Nguyên ý là có trời đất riêng khác, trong Thiền tông chỉ cho cảnh giới khai ngộ siêu việt tình thức phân biệt. Tắc 92, Thung Dung lục (Đại 48, 287 thượng) ghi:
»收 卷 餘 懷 厭 事 華
歸 來 何 處 是 生 涯
爛 柯 樵 子 疑 無 路
挂 樹 壺 公 妙 有 家。
(別 是 一 乾 坤)«
»Thu xếp hành trang ngán sự đời
Quay về đâu nhỉ để sinh nhai?
Gã tiều cán mục ngờ không lối
Ông đạo bầu treo khéo có nơi.
(Riêng có trời đất)«.
Nếu như hình dung gia phong riêng biệt không gì có thể so sánh được, gọi là Biệt Thị Nhất Gia Phong 別 是 一 家風. Tắc 64, Bích Nham lục (Đại 48, 195 trung) ghi: »公 案 圓 來 問 趙 州 長 安 城 裹 任 閑 遊、 草 鞋 頭 戴 無 人 會 (也 有 一 箇 半 箇。 別 是 一 家 風。 明 頭 也合 暗 頭 也 合)。 – Công án đem ra hỏi Triệu Châu: Trường An thành ấy mặc ngao du, giày cỏ đội đầu nào ai biết (cũng còn một người ưu tú có gia phong riêng, sáng cũng hợp, tối cũng hợp)«.
BIỆT VIỆN 別 院
Ngoại trừ bản sơn của một tông, các tự viện được thiết lập ở các nơi khác đều được gọi là Biệt viện. Như Phật Quang Sơn ở Cao Hùng Đài Loan có Biệt viện Phổ Môn Tự ở Đài Bắc, Biệt viện Phổ Hiền Tự ở Cao Hùng.
BIỂU BẠCH表白
1. Đọc lên lời chúc nguyện để báo cho đại chúng biết rõ về một sự việc.
2. Chức danh trong thiền viện đời Tống, chỉ cho người điều phối chương trình (xướng ngôn viên). PDNL ghi: 開 堂黃 梅。宰 公 度 疏 師 拈 起 示衆 云。見 摩?差 珍 異 寶盡 在 其 中。若 也 不 見。請 表 白 對 衆 拈 出。- Khai đường ở Hoàng Mai, Tể công trao sớ, sư liền đưa lên dạy chúng rằng “Thấy chăng ? Trân bảo nhiều thứ đều ở trong này. Nếu chẳng thấy mời Biểu bạch ở trước chúng lấy ra”.
BIỂU HIỂN 表 顯
Cái biểu lộ ra ngoài, thường là dấu vết của lời nói, tri giải. Lâm Tế ngữ lục ghi: »如 十 二 分 教。 皆 是 表 顯 之 説。 學 者 不 會。 便 向 表 顯 名 句 上 生 解。 皆 是 依 倚 落 在 因 果。 未 免 三 界 生 死。 – Ngay như mười hai phần giáo đều là lời nói biểu hiển. Người học không lãnh hội liền ở trên lời nói sinh hiểu, đều là nương tựa, rơi trong nhân quả, chưa khỏi sinh tử ba cõi.«
BIỂU SẤN 俵襯
Chia vật cúng dường cho đại chúng. Phần Diên trai trong TUTQ quyển 6 ghi: 唯 那鳴 ,首 施 ,或 主 襯,或 事 行;大 食 ,法 頭 維那鳴 ,念“處 界 虛 ”等,略 疏 大 ,迴 ,念 佛 ,鳴磬而起Duy-na đánh khánh, hoặc Thủ tọa chia vật cúng, hoặc thí chủ chia hoặc tri sự chia thay. Đại chúng ăn xong, vị Pháp sự đầu hoặc Duy-na đánh khánh, niệm ‘xử thế giới như hư không” v.v…lược lấy nghĩa chính trong sớ, hồi hướng, niệm mười danh hiệu Phật xong, đánh khánh đứng dậy.
BIỂU TẮC 表 則
Kiểu mẫu. Gương Mẫu. Chương Hòa Sơn Vô Điện Thiền sư trong CĐTĐL q. 17 ghi: »學 徒 濟 濟、 嘗 述 垂 誡 十 篇、 諸 方 歎 服、咸 謂 禾 山 可 以 爲 叢 林 表 則。 – Người học tụ về, sư từng trình bày 10 thiên răn dạy; các nơi thán phục, thảy đều bảo rằng Hòa Sơn có thể làm gương mẫu chốn tùng lâm«.
BIỂU TỬ 俵子
Thẻ để nhận vật bố thí. Đối với việc bố thí trong ma chay v.v…trước đó phân phát thẻ cho mọi người, thẻ này gọi là biểu tử. Đến đúng ngày giờ, cầm thẻ đến nơi có đám ma chay để nhận bố thí.
BÍNH ĐINH ĐỒNG TỬ 丙 丁 童 子
Chú bé coi về việc đèn lửa, dụ cho chúng sinh sẵn đủ Phật tính lại đi tìm bên ngoài. Bính Đinh là can Bính, Đinh trong thiên can phối hợp với ngũ hành thì thuộc về hỏa, cho nên dùng Bính Đinh để dụ cho lửa. Cảnh Đức Truyền Đăng lục q. 24 ghi: »金 陵 報 恩 院 玄 則 禪 師 滑 州衛 南 人 也。 初 問 青 峰 (有 本 云 白 兆) 如 何 是 佛 (2 有 云 自 己) 青 峰 曰: 丙 丁 童 子 來 尋 火。 – Thiền sư Huyền Tắc ở viện Báo Ân, Kim Lăng, là người Vệ Nam, Hoạt Châu. Ban đầu sư đến hỏi Thanh Phong: Thế nào là Phật? Thanh Phong nói: Chú bé coi về việc đèn lửa mà đến xin lửa«.
BÍNH NGỮ 柄 語
Tiểu tựa đặt ở đầu sớ khuyến thỉnh vị Tân trụ trì nhập tự, hoặc ở đầu sớ của các sư đồng môn chúc mừng vị Tân trụ trì. Vì phần tiểu tựa này có vị trí giống như cái cán gáo nên gọi là Bính ngữ.
BÌNH BÌNH THIẾP THIẾP 平 平 貼貼
Rất bình thường, rất ổn đáng. Thư đáp Trịnh Côn Nham Trung thừa trong HSLNMDT q. 1 ghi: »不 得 貪 求 玄 妙、 以 此 事 本 來 平平 貼 貼、 實 實 落 落、 一 味 平 常、 更 無 玄 妙。 所 以 古 人 道: 悟 了 還 同 未 悟 時、 依 然 只 是 舊 時 人。 – Chẳng được tham cầu huyền diệu, bởi việc này xưa nay rất ổn đáng, đầy đủ sẵn sàng, một mực bình thường không có gì huyền diệu. Vì thế người xưa nói: Ngộ rồi vẫn đồng với lúc chưa ngộ, y nguyên chỉ là người cũ«.
BÌNH CHÙY NGẠNH TỢ THIẾT 枰 錘硬 似 鐵
Trái cân cứng như sắt, dụ chỉ cơ phong cứng rắn, khó tiếp nhận, ứng đối. Tiết Pháp Vân Pháp Tú Thiền sư trong NĐHN q. 16 ghi: »山 僧 不會 巧 說、 大 都 應 箇 時 節。 相 喚 喫 碗 茶 湯、 亦 無祖 師 妙 訣。 禪 人 若 也 未 相 諳、 踏 著 秤 鎚 硬 似 鐵。 – Sư thượng đường, nói: Sơn tăng chẳng biết nói khéo, phần lớn tùy cơ đối đáp, mời nhau thưởng thức chén trà, cũng không có pháp bỉ truyền của Tổ sư. Thiền nhân nếu như chưa hiểu nhau, đạp nhằm trái cân cứng như sắt«
BÌNH ĐỊA 平 地
Vô cớ. Tiết Kinh Triệu Phủ Lai Hòa thượng trong NĐHN q. 9 ghi: »平 地 教 人 作 保。 – Vô cớ khiến người bảo đảm.«
BÌNH ĐỊA HÃM NHÂN 平 地 陷 人
Vô cớ hại người. Mật Am ngữ lục ghi: »若 作 佛 法 商 量、 故 是 匙 排 不 上。 不 作 佛 法 商 量、 平 地 陷 人 無 數。 總 不 與 麼、 也 是 食飽 傷 心。 – Nếu lấy Phật pháp để thương lượng, dĩ nhiên là khó lãnh hội, mà không dùng Phật pháp để bàn luận thì vô cớ hại vô số người. Nếu tất cả chẳng như thế, cũng là ăn no mích lòng…«.
BÌNH ĐỊA KHỞI CỐT ĐỐNG 平 地 起 骨 棟
Đất bằng nổi phần mộ. Cốt đống: Ngôi mộ giả, không có chôn người chết. Cả câu dụ cho hành vi hư vọng uổng công. Tiết Hoa Nghiêm Long Thiền sư trong TLTBT q. 20 ghi: »虛 空 釘 鐵 橛、 平 地 起 骨 棟、 莫 將 閑 學 解、 安 著 佛 階 棲。 – Thiền sư Hoa Nghiêm Long nói: Hư không đóng cọc sắt, đất bằng nổi phần mộ. Chớ đem sự học hiểu suông để sắp đặt giai vị lên quả Phật«.
BÌNH ĐỊA NGẬT GIAO 平 地 吃 交
Ngã té trên mặt đất bằng. Dụ cho kẻ hồ đồ. Tiết Vân Phong Văn Duyệt Thiền sư trong NĐHN q. 12 ghi: »上 堂: 汝 等 諸 人、 與 麼 上 來、 大 似 刺 腦 入 膠 盆、 與 麼 下 去、 也 是 平 地吃 交。 – Sư thượng đường nói: Này các ông! Nhấc lên như thế cũng là ngu si, buông xuống như thế cũng là hồ đồ.«.
BÌNH ĐỊA QUẬT KHANH 平 地 掘 坑
Đất bằng đào xới thành hầm hố. Dụ cho việc làm không cần thiết, uổng công vô ích. Phần Dương ngữ lục q. thượng ghi: »人 無 僧 俗、 同 臻 法 會、 何 處 不可? 更 待 山 僧 擊 揚 斯 事、 恰 似 平 地 掘 坑。 – Người không phân biệt tăng hay tục, cùng đến pháp hội, chỗ nào mà chẳng thể lãnh hội? Còn chờ Sơn tăng đề cao việc này giống như đất bằng đào xới thành hầm hố«.
BÌNH ĐỊA THƯỢNG CAN QUA 平 地 上 干 戈
Vô cớ phát động chiến tranh, dụ chỉ hành vi dư thừa, luống công vô ích. Mật Am ngữ lục ghi: »德 山 棒 如 雨 點、臨 濟 喝 似 雷 奔、 正 是 平 地 上 干 戈、 太 於 時 細 作。 – Đức Sơn vung gậy như mưa rơi, Lâm Tế hét vang như sấm rền, chính là vô cớ phát động chiến tranh, lúc thái bình cũng cần đến công tác tình báo.«
BÌNH GIAO 平 交
Việc giao tế bình đẳng, không phân biệt trên dưới, hoặc chỉ cho người đồng hàng với ta về đạo đức, tư cách, tuổi tác v.v… Như vị Thủ tọa có tuổi tác, tư cách, đức hạnh ngang bằng với mình thì gọi Bình giao Thủ tọa.
BÌNH HOÀI 平 懷
Tâm bình đẳng tự nhiên, chẳng khởi tư tưởng đối lập phân biệt. Tín Tâm Minh ghi: »圓 同 太 虛、 無 欠 無 餘。 良 由 取 捨、 所 以 不 如。 莫 逐 有 緣、 勿 住 空 忍。 一 種 平 懷、 愍 然 自 盡。 – Tròn đồng thái hư, không thiếu không dư. Bởi do thủ xả, cho nên bất như. Đừng theo nơi Có, chớ trụ nơi Không. Trọn một bình đẳng, tuyệt nhiên tự sạch«.
BÌNH NHÂN 平 人
Người vô tội. Mật Am ngữ lục ghi: »無 限 平 人 被 陸 沉。 – Người vô tội bị chết chìm trên đất bằng vô hạn.« Trung Phong Quảng Lục, quyển 4 ghi: »今 日 不 辭 與 你 說 破、 久 後 恐 累 及 平 人。 – Hôm nay không từ chối nói toạc với ông thì e rằng sau này sẽ liên lụy đến người vô tội.«
BÌNH TĂNG 平 僧
Có hai nghĩa: 1. Hạng tăng lữ mới xuất gia mà chưa được vào đẳng cấp nào; 2. Vị tăng chưa được nối pháp.
BÌNH THẬT NGỮ 平 實 語
Lời nói bình thường, chân thật. Pháp Diễn ngữ lục, q. hạ ghi: »上 堂、 僧 問: 如 何 是 佛? 師 云: 許 多 時 向 什 麼 處 去 來?乃 云: 達 磨 未 來 時、 冬 寒 夏 熱; 達 磨 來 時、 夜 暗 晝 明。 諸 人 若 下 得 一 轉 平 實 語、 喫 鹽 聞 咸、 喫 醋 聞 酸;若 道 不 得、 迦 葉 門 前 底。 – Sư thượng đường, tăng hỏi: Thế nào là Phật? Sư nói: Nhiều lúc không biết đi đâu! Rồi sư nói tiếp: Đạt-ma chưa đến, đông lạnh hạ nóng. Đạt-ma đến rồi, đêm tối ngày sáng. Nếu các ông nói được một lời bình thường chân thật thì ăn muối biết mặn, uống giấm biết chua. Nếu các ông nói chẳng được thì còn ở trước cửa của ngài Ca-diếp«.
BÌNH THIẾP 平 怗
Bình an, ổn định. Tiết Dục Vương Giới Thầm Thiền sư trong NĐHN q. 18 ghi: »上 堂: 我 若 說 有、 你 爲 有 礙。 我 若 說 無、 你 爲 無 礙。 我 若 橫 說、 你 又 跨 不 過。 我 若 豎 說、 你 又 跳不 出。 若 欲 叢 林 平 怗、 大 家 無 事、 不 如 推 倒 育 王。 且 道 育 王 如 何 推得 倒 去? 召 大 眾 曰: 著 力! 著 力! – Sư thượng nói: Nếu ta nói có, ngươi sẽ bị có làm ngại; nếu ta nói không, ngươi sẽ bị không làm ngại. Nếu ta nói ngang, ngươi lại không vượt qua được. Nếu ta nói cứng thì ngươi nhảy chẳng ra khỏi. Nếu muốn tùng lâm an ổn, mọi người vô sự, chẳng bằng xô ngã Dục Vương (chỉ ngài Giới Thầm). Thử hỏi làm sao xô ngã Dục Vương? Sư gọi đại chúng bảo: Nỗ lực! nỗ lực!«.
BÌNH THƯỜNG ẨM TRÁC 平 常 飲 啄
Ăn uống bình thường. Đây là thái độ sinh hoạt bình thường nhàn nhã của người ngộ Thiền. Dục Vương Hoài Uẩn Thiền sư trong NĐHN q. 15 ghi: »但 知 十 二 時 中、 平 常 飲 啄、 快 樂 無 懮。 – Chỉ biết sinh hoạt bình thường trong một ngày đêm, vui vẻ không lo«.
BÌNH THƯỜNG TÂM THỊ ĐẠO 平 常心 是 道
Bản thể của tự tính bình thường cùng khắp thời gian không gian, nơi phàm chẳng bớt, nơi Thánh chẳng thêm. Tâm này bình đẳng, chẳng sinh chẳng diệt, chúng sinh y theo tâm này ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày, nên gọi bình thường là đạo vậy. Lâm Tế ngữ lục ghi: »若 人 修 道 道 不行、 萬 般 邪 境 競 頭 生。 智 劍 出 來 無 一 物、 明頭 未 顯 暗 頭 明。 所 以 古 人 云: 平 常 心 是 道。 – Nếu người tu đạo chỉ nói mà không thực hành, muôn thứ cảnh tà giành nhau sinh. Kiếm trí huệ xuất hiện thì không còn một vật. Sáng dù chưa hiện song tối đã rõ. Cho nên người xưa nói: Tâm bình thường là đạo«.
BÌNH TÍNH 平 性
Bản tính bình đẳng. Minh Châu Tụng trong Phạm Kỳ ngữ lục q. 18 ghi: »諸 佛 衆 生 平 性、 豈 同 外 物 消 長? – Chư Phật và chúng sinh bản tính bình đẳng, há cùng với ngoại vật tăng trưởng và giảm xuống.«
BÌNH TRẦM 平 沉
1. Lún xuống. Như Tịnh ngữ lục q. thượng ghi: »指 法 座: 大 地 平 沉、 此 座 高 廣、 千 變 萬 化、 無 功 受 賞。 – Sư chỉ pháp toà nói: Mặt đất lún xuống, tòa này cao rộng, ngàn biến vạn hóa, không công mà được thưởng.«
2. Sa sút, suy sụp. Động Sơn Hòa thượng trong TĐT q. 6 ghi: »苦 哉! 苦 哉! 今 時 學 者、 例 皆 如 此、 秖 認 得 驢 前 馬 後、 將 當 自 己 眼 目、 佛 法 平 沉、 卽 此 便 是。 – Khổ thay! Khổ thay! Người học đạo ngày nay lệ thường đều như thế. Chỉ biết nô lệ người khác cho là nhận thức của mình. Phật pháp suy sụp, chính là ở chỗ này.«
BÌNH TRỊ 平 治
Sửa sang, sắp xếp. Minh Châu Tụng trong Phạm Kỳ ngữ lục q. 18 ghi: »平 治 自 家 田 地、 淨 除 瓦 礫 荊 棘。 – Sửa sang ruộng vườn nhà mình, dọn sạch ngói gạch gai góc.«
BÌNH TRIỂN 平展
Đối lại: Đề trì.
Làm lộ rõ bộ mặt thật của sự việc. Thiền tông mượn từ này để diễn tả việc thiền sư chấp nhận kiến giải của người học và để cho người học tự do phát triển cơ duyên ngộ đạo.
Tắc 22, BNL ghi: 爾若平展,一任平展;爾若打破,一任打破。Nếu ông bình triển, cứ việc bình triển, nếu ông đả phá, cứ việc đả phá.
BÌNH XUẤT 平 出
Tương đương, ngang nhau. Pháp Diễn ngữ lục, q. trung ghi: »上 堂、 僧 問:承 師 有 言、 山 前 一 片 閑 田 地、 只 如 威音 王 已 前、 未 審 什 麼 人 爲 主? 問 取 寫 契 書 人。 學 云: 和 尚 爲 甚 麼 倩 人 來 答? 師 云: 只 爲 你 教 別 人 問。學 云: 與 和 尚 平 出 去 也。 師 云: 大 遠 在! – Sư thượng đường, tăng hỏi: Con nghe sư nói phía trước núi có một mảnh đất để trống. Vậy từ Oai Âm Vương về trước, người nào làm chủ đất này? Sư bảo: Hãy hỏi người viết bằng khoán. Học nói: Vì sao Hòa thượng nhờ người đáp? Sư bảo: Chỉ vì ông hỏi giùm người khác! Học nói: Cùng Hòa thượng ngang nhau rồi! Sư bảo: Còn rất xa«.
BÌNH XƯỚNG 評 唱
Tuyên thuyết, bàn luận về cơ ngữ hành vi của người xưa. Bích Nham lục q. 1 ghi: »師 (指 佛 果 和 尚) 住 澧 州 夾 山 靈 泉 禪 院、 評 唱 雪 竇 顯 和 尚 頌 古 語 要。 – Sư (chỉ Phật Quả Hòa thượng) trụ thiền viện Linh Tuyền ở Giáp Sơn, Lễ Châu, bình xướng tụng cổ ngữ yếu của Hòa thượng Tuyết Đậu.«
BỈNH CỰ 秉 炬
Còn gọi: Hạ hỏa, Hạ cự.
Cầm cây đuốc để châm lửa ; một nghi thức trong lúc hỏa táng trong Thiền lâm.
Trong khi làm lễ, chỉ có người kế thế trụ trì là cầm đuốc thật; những người còn lại đều cầm cây đuốc gỗ sơn đỏ để tượng trưng cho lửa hoặc dùng cây đuốc đầu có bông đỏ như ngọn lửa.
BỈNH PHẤT 秉 拂
Phất, chỉ cho cây phất trần (phủi bụi), là đồ vật trang nghiêm của Thiền gia. Khi thượng đường thuyết pháp cho đại chúng, vị Trụ trì hay người thay thế cho Trụ trì tay cầm phất tử thì gọi là Bỉnh phất. Tông Môn Võ Khố ghi: »後 二年、 擧 賢 篷 頭 首 衆、 立 僧 秉 拂、 說 法 有 大 過 人 處。 – Hai năm sau, cử Hiền Bồng đứng đầu tăng chúng, là vị tăng đứng cầm phất tử, thuyết pháp có chỗ hơn người«.
BỐ NẠP 布 衲
1. Áo vá của chư tăng. Bài thơ »Sơn trung tứ oai nghi« trong PDNL q. hạ ghi: »但 得 身 心 到 處 閒、 多 年 布 衲 從 教 破。 – Chỉ cần thân tâm đến được chỗ an nhàn, mặc cho chiếc áo vá lâu năm bị rách.«
2. Từ gọi tăng nhân. Tiết Dược Sơn Duy Nghiễm trong NĐHN q. 5 ghi: »遵 布 衲 浴 佛、 師 曰: 這 箇 從 汝 浴、 還 浴 得 那 箇 麼? 遵 曰: 把 將 那 箇 來。 師 乃 休。 – Tuân Bố nạp tắm Phật. Sư bảo: Cái này được ngươi tắm, có tắm được cái kia chăng? Tuân đáp: Xin đem cái kia lại. Sư liền thôi.«
BỐ PHÁT YỂM NÊ 布 髮 掩 泥
Trải tóc lên bùn. Theo truyện thần thoại Phật giáo: Tiền thân của đức Phật Thích-ca dâng hoa cúng dường Phật Nhiên Đăng và khi thấy mặt đất lầy lội, ngài đem tóc của mình trải lên bùn để Phật Nhiên Đăng bước qua. Minh Giác ngữ lục q. 1 ghi: »布 髮 掩 泥 因 底 事?– Trải tóc lên bùn rốt cuộc vì cái gì?«.
BỒ ĐOÀN 蒲 團
Còn gọi: Viên tòa. Dụng cụ để ngồi bện bằng cỏ bồ, hình tròn, hai mặt bằng phẳng. Đây là vật mà Thiền tăng dùng khi tọa thiền hay lúc quỳ lạy. Về sau, tuy bên trong độn bông hay mousse nhưng vẫn gọi là Bồ đoàn.
Bài Xuân Vãn của Trúc Lâm Đầu-đà (Thiền sư Việt Nam) ghi:
年 少 何 曾 了 色 空
一 春 心 在 百 花 中
如 今 勘 破 東 皇 面
禪 板 蒲 團 看 墜 紅
»Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung
Như kim khám phá Đông hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng«.
»Tuổi trẻ đâu từng rõ sắc không,
Xuân về, hoa thắm vấn vương lòng
Chúa xuân nay đã nhìn tường mặt
Thiền bản, bồ đoàn ngắm rụng hồng«.
BỔ ĐẮC LÃO THỬ, ĐẢ PHÁ DU ỦNG 捕 得 老 鼠、 破 油 甕
Bắt được con chuột, đập bể bình dầu, ý nói có được có mất, lợi không bù hại. Tiết Kính Sơn Trí Sách Thiền sư trong NĐHN q. 18 ghi: »教 中 道: 若 以 色 見 我、 以 音 聲 求 我、 是 人 行 邪 道、 不 能 見 如 來。 雖 然 恁 麼、 正 是 捕 得老 鼠、 打 破 油 甕… 若 是 塗 毒 即 不 然、 色 見 聲 求 也 不 妨、 百 華 影 裡 繡 鴛 鴦。 – Lời nói trong Kinh: Nếu dùng sắc tướng để thấy ta, dùng âm thanh để tìm ta, người ấy tu hành thiên lệch, không thể thấy Như Lai. Mặc dù như thế, chính là bắt được con chuột lại đập bể bình dầu …. . Nếu là Đồ Độc tôi (chỉ pháp hiệu của thiền sư Trí Sách) thì chẳng phải như vậy, dùng sắc để thấy dùng âm thanh để tìm cũng chẳng ngại, giống như là chim uyên ương thêu trong bóng trăm đóa hoa.«
BỔ XỨ 補 處
Vị Bồ Tát kế thừa đức Phật trước mình để thành Phật, người kế thừa Tổ sư trong nhà thiền. Chương Thích-ca Mâu-ni Phật trong CĐTĐL q. 1 ghi: »爾 時 世 尊 說 此 偈 已、 復 告 迦 葉: 吾 將 金 縷 僧 伽 梨 衣 傳 付 於 汝、 傳 授 補 處、 至 慈 氏 佛 出 世、勿 令 朽 壞。 – Khi ấy, đức Thế Tôn nói kệ này xong, lại bảo Ca-diếp rằng: Ta đem y Tăng-già-lê của chư Phật giao lại cho ngươi, truyền trao bổ xứ, đến lúc Phật Từ Thị ra đời, chớ để hư mất.«
Chương Hy Thiên truyện trong TCTT q. 9 ghi: »後 聞 盧 陵 青源 山 思 (指 行 思) 禪 師 爲 曹 溪 (指 六 祖 慧 能) 補 處、 又 攝 衣 從 之。 – Về sau, sư nghe thiền sư Tư (chỉ Hành Tư) trụ núi Thanh Nguyên ở Lô Lăng được Tào Khê (chỉ Lục Tổ Huệ Năng) bổ xứ, liền thay đổi y phục đi theo ngài.«
BỘ HÀNH BẤT KỴ CÂU步 行 不 騎 駒
Đi bộ không cưỡi con ngựa tơ của mình, ý chỉ chúng sinh có Phật tính mà không biết lại tìm cầu bên ngoài nhọc nhằn như người có con ngựa tơ mà không biết cưỡi lại chịu đi bộ. ĐNTUTĐTL ghi: 道 行 禪 師 又 云 ﹕
日 月 在 巖 頭 ,
人 人 盡 失 珠
夫 人 有 駒 子
步 行 不 騎 駒
Thiền sư Đạo Hạnh nói:
Trời trăng nơi đầu núi,
Người người mất hạt trai.
Có ngựa mà không cưỡi,
Lại chịu cuốc bộ hoài.
BỐC ĐẠC 卜 度
Dùng lẽ thường tình của thế tục để hiểu rõ suy nghĩ và chú giải. Tiết »Nghệ Ngôn« trong NHQL q. 29 ghi: »不 管 有 義 無 義、 畢 竟 卜 度 他 不 得。 – Dù cho có nghĩa hay không có nghĩa, xét đến cùng thì dùng lẽ thường tình của thế tục để hiểu rõ, suy nghĩ về nó thì chẳng được.«
BỒI ĐƯỜNG 陪 堂
1.Căn nhà ở ngoài tăng đường dùng để dọn cơm cho khách tăng thọ thực.
2. Một chức vị trong giới trường. Là người phụ giúp vị khai đường hướng dẫn các giới tử nghi thức thọ giới.
BỒI SẤN 陪 襯
Thêm phần vật cúng cho người có công lao nhiều.
Điều Tiên Điểm Tây đường Đầu thủ Tân mệnh trong BDTQ quyển 4 ghi: 尃 使 詣新 命 前,議 定 方 丈 嚫 施,引 座 謝禮 ,當 嚫 貼 嚫,宜 疏 帖人 陪 嚫 Vị tăng chuyên trách đến trước vị tân trụ trì trình bày về vật cúng dường vị cựu trụ trì và hướng dẫn vị Tân trụ trì tạ lễ; đối với vật cúng thí thì công bố tên những người được bồi sấn.
BỒI THIẾP 陪 貼
Những vật cúng dường khác ngoài thức ăn, thuốc uống, y phục v.v…trong thiền viện.
Điều Thiên hóa trong STBTTQ quyển 3 ghi: 主 喪 人 須 與 首 座 計 會 所 遺 衣鉢 多 少,默作 三 分。一 分 准 喪(…)一 分 歸 常 住 陪 貼 供養,一 分 俵大 衆,看 經 幷 佛 事 板 帳等 用。 Vị chủ tang phải cùng Thủ tọa tính xem y bát để lại nhiều ít, thầm chia 3 phần: Một phần làm chi phí chôn cất (…), một phần cúng dường thêm vào thường trụ, một phần biếu đại chúng để chi dùng vào việc xem kinh và các Phật sự khác như bảng, trướng v.v…
BỒI THỰC 陪 食
Tiép đãi ăn uống.
Trong Thiền tông, vào ngày kỵ Sơ Tổ Đạt ma, vị Trụ trì không đến Trai đường ăn cháo mà ở Pháp đường ăn cháo để tiếp đãi Tổ sư.
Điều kị Đạt-ma trong STBTTQ quyển 3 ghi:次 日 早, 住 持 上 香 禮 拜,上 湯上 粥,座 下 側 坐 陪 食。Sáng sớm ngày kế,vị trụ trì thắp hương lễ bái, dâng nước trà, dâng cháo, rồi xuống tòa ngồi một bên ăn tiếp đãi cháo Tổ sư.
BÔN LƯU ĐỘ NHẪN 奔 流 度 刃
Dòng nước chảy xiết, dụ cho sự việc xảy ra chớp nhoáng, phần lớn chỉ cho pháp nhãn, thiền cơ. Tiết Thị Dục Tạng Chủ trong DTNL q. 3 ghi: »示 汝 一 機 一 境、 一 挨 一 拶、 如 擊 石 火、 如 閃 電 光、 如 疾 焰 過 風、如 奔 流 度 刃、 如 金 剛 圈、 如 鐵 酸 餡。 – Dạy ngươi một cơ một cảnh, bên xô bên đẩy như đập đá nháng lửa, như ánh điện chớp, như gió thổi lửa bùng, như dòng nước chảy xiết, như vòng kim cang, như bánh bò nhưn sắt«.
BÔN SẤN 奔 趁
Đuổi theo, đuổi kịp. Tào Khê Đại Sư Biệt truyện: »慧 明 聞能 (指 慧 能) 大 師 將 衣 鉢 去、 遂 奔 趁 南 方、 尋 至 大 庾 岭。 – Huệ Minh nghe Đại sư Năng (chỉ Huệ Năng) đem y bát đi, liền nhằm hướng Nam đuổi theo, đến núi Đại Lãnh thì đuổi kịp.«
BỔN 本
Tất cả những từ bắt đầu bằng 本 xin xem dưới BẢN.
BỔNG HÁT 棒 喝
Đánh hét. Cách tiếp hóa đệ tử của Tổ sư Thiền tông. Bậc thầy giỏi trong nhà Thiền, khi tiếp dẫn người học thường dùng tiếng hét hoặc dùng gậy đánh để dứt hẳn sự suy nghĩ hư vọng của họ, hay nhằm khảo nghiệm chỗ ngộ của họ.
Tắc 2, Bích Nham lục (Đại 48, 141 trung) ghi: »殊 不 知、 這 老 漢 平 生 不以 棒 喝 接 人、 只 以 平 常 言 語。 – Thật không ngờ, lão già này cả đời chẳng dùng đánh và hét để tiếp độ người mà chỉ dùng ngôn ngữ bình thường«.
― Bổng hát giao trì: Về sau, Thiền sư tiếp dẫn người học, phần nhiều dùng gậy xen lẫn với hét nhằm mục đích thúc đẩy người học chóng giác ngộ. Tham thiền kệ trong Thiền Tịnh Hợp Yếu của Thiền sư Phương Tụ Thành ghi:
參 禪 第 一、 知 恩 識 德
棒 喝 交 馳、 非 徒 施 設
»Tham thiền đệ nhất, tri ân thức đức
Bổng hát giao trì, phi đồ thi thiết«.
Pháp tham thiền bậc nhất,
Biết ơn Thiện tri thức.
Đánh hét xen lẫn nhau,
Chẳng lập bày vô ích«.
― Đương đầu bổng hát: Dùng đánh và hét để cảnh tỉnh sự mê chấp của người học. Đòn cảnh tỉnh.
BỔNG HÁT THIỀN 棒 喝 禪
Thiền đánh hét. Tác phong của bậc thiền sư tài giỏi khi tiếp người hoặc dùng gậy đánh, hoặc dùng tiếng hét. Lâm Tế hỏi Hoàng Bá: “Thế nào là đại ý Phật pháp? Hoàng Bá lấy gậy đánh sư, ba lần hỏi như thế đều bị đánh. Sau đó Lâm Tế tham vấn Đại Ngu lãnh ngộ được yếu chỉ của Hoàng Bá. Sư trở về Hoàng Bá cơ phong lúc này của sư rất bén nhạy. Hoàng Bá lại đánh, Lâm Tế liền hét. Về sau Lâm Tế tiếp dẫn người học bằng cách dùng đánh hét xen lẫn nhau, nên ngày nay gọi là đòn cảnh tỉnh người còn mê chấp.
BÚT 筆
Ghi chép. Tiết Minh Châu Tổ Giám Thiền sư trong NĐHN q. 18 ghi: »僧 請 筆 師 語 要。 – Tăng xin được ghi chép những lời nói quan trọng của Sư.«
BÚT KÝ 筆 記
Thể loại văn xuôi tự sự, ghi lại con người và sự việc trong Thiền lâm. Thí dụ: Tông Môn Võ Khố của Đại Huệ Tông Cảo, Lâm Gian Lục của Huệ Hồng soạn, La Hồ Dã lục của Hiểu Oánh soạn, Vân Ngọa Kỷ đàm do Hiểu Oánh soạn, Tùng Lâm Thịnh Sự do Đạo Dung soạn, Nhân Thiên Bảo Giám do Đàm Tú soạn, Sơn Am Tạp lục do Vô Uấn soạn đều thuộc thể loại này.
BỨC TẠT 逼 拶
Thiền sư khéo lập phương tiện, chặt đứt ngôn ngữ tri giải của người học, khiến họ không suy nghĩ gì được nữa, không còn đường tiến thoái. Trong cơn quẩn bách đó, người học có khả năng bước vào cảnh giới NGỘ, đây gọi là »Bức tạt«. Mật Am ngữ lục ghi: »逼 拶 燈 籠 露 柱、 盡 要 心 空 及 第。 – Bức tạt lồng đèn cột cái, tất cả cần tâm không mới đỗ đạt«.
BỨC TẮC 偪 塞
Đầy ắp, sung mãn. Huệ Nam ngữ lục ghi: »如 聾 如 啞、 偪 塞 乾 坤、 知 痛 知 痒、 能 有 幾 箇? – Như điếc như câm đầy ắp hư không, biết đau biết ngứa có được mấy người?«.