
Chiều nay dừng bước trên bờ biển, trong tiếng ào ạt của sóng, thì thầm của gió, cảnh mênh mông của nước trời liền dải, con chợt cảm nhận mình giống như con ốc nhỏ giữa đại dương và khám phá ra cả một đại dương vô bờ ẩn hiện trong đôi mắt của ân sư.
Những cảm nghĩ miên man về Thầy - bậc ân sư khả kính của con - như những đợt sóng từ xa khơi đổ về….
Tấm lòng từ ái của Thầy quả thật bao la như đại dương mà theo con nghĩ không chỉ riêng con mới phát hiện ra, thọ nhận được…..
Con nhớ lại ngày đầu tiên lên Tu viện Chơn Không với tâm trạng hâm mộ hình tướng giải thoát, dung nghi khác phàm của chư tăng nơi đây. Trong lúc con chắp tay quỳ xuống xin được xuất gia tu hành. Thầy đã nhìn con bằng ánh mắt hiền từ, ấm áp rồi hứa khả.
Năm 1975, trong những ngày tháng tạo dựng nông thiền, Thầy xuôi ngược đến với chúng con trên tuyến đướng, Chơn Không – Thường Chiếu – Viên Chiếu. Tháng năm canh tác tự an bần lạc đạo ấy càng thể hiện rõ nét chan hòa, gần gũi, thấm đẫm tình người của Thầy qua ánh mắt ngời sáng bao dung. Tuy trong cảnh khó khổ, Thầy vẫn giữ được phong thái bình thản an nhiên, khiến chúng con đặt trọn niềm tin nơi con đường đã chọn, không dao động, không lùi bước trước niềm thử thách cam go. Sống giữa đồng hoang trống trải, chịu đủ mọi vất vả nhọc nhằn, song chúng con cảm thấy yên tâm và thích thú vì được sống gần thiên nhiên và vì có Thầy bên cạnh.
Những buổi hoàng hôn rực nắng, dạo bước bên Thầy, nhìn khói lam chiều nhẹ tỏa trên mái lá, xa xa là những cánh rừng xanh thẳm, tiếng chim hoành hoạch kêu từng hồi rộn rã, làm con liên tưởng đến xóm đạo “Tha La” của Vũ Anh Khanh:
Đây tha la xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tôi về thăm một dạo
Giữa mùa nắng vàng hanh
Ngậm ngùi Tha La bảo
Đây rừng xanh rừng xanh
Bụi đùn quanh ngõ vắng
Khói đùn quanh góc tranh….
Mà con nghe lòng mình rạt rào bao niềm thương mến.
Buổi tối ở miền quê u tịch, dưới ánh đèn dầu leo lét, chúng con quây quần bên Thầy để vừa lao động vừa học tập. Hình ảnh Thầy ngồi bên dưới sàng thất vừa lặt đậu vừa kể chuyện cho chúng con nghe trong một đêm mưa gió thật là một cảnh tượng khó quên. Thú thật lúc bấy giờ, vì buồn ngủ cũng có, vì mệt mỏi cũng có, nên con không hiểu hết những ẩn ý nằm đằng sau những mẫu chuyện thoạt nghe tưởng chừng như ngẫu hứng, lan man của Thầy – khi thì những giai thoại Thiền, khi thì về chuyện đời xưa, đời nay, cũng có khi lại là những kỷ niệm trong cuộc đời hoằng pháp của Thầy. Về sau, khi ôn lại những gì đã nghe trong những ngày ấy, con bỗng “ngộ” ra rằng qua đó, thầy không chỉ truyền đạt con đường đốn ngộ của Thiền, mà còn muốn gợi mở những suy nghĩ về lẽ sống: Đạo giác ngộ nằm trong lòng cuộc sống, sống làm sao có ý nghĩa, và lợi ích cho mọi người; và chỉ dạy đạo lý căn bản cho những chú thanh niên mới chập chững bước vào con đường hướng thượng….
Con còn nhớ có lần vì kém hiểu biết nên có một nhận thức sai lầm. Trước một bước ngoặc của đời tu mà con lại bắt chước Bá Di, Thúc Tề, chỉ uống nước chứ chẳng chịu ăn cơm, khiến Thầy phải nhọc nhằn từ Chơn Không xuống Thường Chiếu khuyên nhủ. Con nhận được chiều kích của đại dương qua ánh mắt nghiêm khắc ấy, liền từ bỏ ý nghĩ dại dột của mình.
Lần khác, cũng trước một khúc quanh của cuộc đời, con tưởng chừng buông xuôi, đầu hàng số phận, nhưng thật là vạn hạnh là được thầy điểm hóa cho một câu, và con đọc được từ đôi mắt Thầy một niềm thương yêu khích lệ lớn lao. Lần đó, số phận nghiệt ngã buộc con phải xa Thầy, xa mái ấm thiền viện. Từ Thường Chiếu, con buồn bã về Chân Không từ giã Thầy để ra đi. Con đã mượn hai câu thơ của Tào Đường để chúc Thầy và nói lên tâm trạng gần như tuyệt vọng của mình:
花留洞口應長在
水到人間定不回
Hoa đương động khẩu ưng trường tại
Thủy đáo nhân gian định bất hồi.
(Hoa thơm cửa động còn thơm mãi
Nước chảy hồng trần nước chảy xuôi)
(Ngô Tất Tố)
Nhưng không ngờ Thầy liền chỉnh lại câu thứ hai:
Thủy đáo nhân gian nhất định hồi.
Thế là nhờ ghi tâm khắc cốt câu nói đó mà con hạ quyết tâm sẽ trở lại Thiền Viện và về sau quả được toại nguyện.
Ôi ! nói sao hết những điều vụng dại của con. Những điều ấy đã làm phiền lụy đến Thầy không ít. Vậy mà sau những lần lầm lỗi , sám hối xong, con cũng đều được Thầy nhìn bằng ánh mắt từ hòa, tha thứ. Chính ánh mắt ấy đã giúp con vượt qua những nỗi buồn chán và có thêm nghị lực.
Vào thập niên 1990 - 2000, Thầy bận Phật sự phải đi hoằng pháp ở hải ngoại. Mấy huynh đệ trong ban chức sự cùng đại chúng cùng thấp thỏm trông ngóng và cảm thấy trống vắng như thiếu mất một cái gì thiêng liêng mà gần gũi vô cùng. Khi thầy trở về, chúng con nhìn thầy vẫn thấy nét cười qua ánh mắt, dù ở đuôi mắt Thầy đã rạn dấu chân chim. Chúng con thật sự kinh ngạc, thật sự thán phục năng lực lợi tha phi thường của Thầy. Tuổi già, đi xa, chịu sự đổi thay của thời tiết từ nhiệt đới đến hàn đới,thuyền xe vất vả, phong thổ và thời gian sai biệt cũng đủ khiến cho đồng hồ sinh học trong người rối loạn, huống là cộng thêm thế thái nhân tình đủ kiểu, vậy mà Thầy vẫn chịu nổi, vẫn tự tại, ung dung. Thật đúng như lời ngài Huyền Giác trong Chứng Đạo Ca:
不因訕謗起冤親
何表無生慈忍力
Bất nhân san báng khởi oan thân
Hà biểu vô sanh từ nhẫn lực.
(chẳng do phỉ báng dấy oán thân
Sao tỏ vô sanh sức từ nhẫn .)
Thầy quả là tấm gương hoằng pháp sáng ngời để chúng con noi theo học tập.
Có thể trong số chúng con, những đệ tử của thầy, có kẻ chưa nhận ra dạng tích cực của cánh sóng nơi đại dương mà hiểu lầm rồi rời xa Thầy. Nhưng theo vọng tưởng của con , bổn phận của người đệ tử là phải luôn luôn rèn luyện mình, siêng năng học tập kinh điển, dùng nội tâm quán chiếu sâu sắc những lời Thầy dạy. Đó chính là cách đóng thuyền thật chắc, lèo lái thật vững, để cánh sóng của địa dương đưa thuyền ta đi đến chân trời tươi sáng. Còn như trách rằng sóng cả cố ý nhấn chìm ta thì e không đúng, chỉ tại ta không biết nhìn xa và không biết nương vào cánh sóng, có phải?
Gác lại những mỹ từ mà mọi người xưng tụng, đối với riêng con, Thầy mãi là đại dương, đã và đang nâng chiếc thuyền của chúng con trên những cánh sóng, bằng những cánh sóng từ ái của đại dương yêu thương không điều kiện đó. Thầy đưa chúng con đến bến bờ Chân Thiện Mỹ. Ô ! Thật hạnh phúc biết bao ! Thật đáng trân trọng biết bao !
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét