Thứ Tư, 3 tháng 3, 2010

VƯỜN THIỀN RỪNG NGỌC

Photobucket

Lời dịch giả trong lần tái bản

Thông Thiền soạn dịch

(In lần thứ 2, có bổ sung và sửa chữa)

Bản tiếng Việt này được dịch từ ba quyển:

1. Thiền Uyển Mông Cầu của thiền sư Chí Minh.

2. Thiền Uyển Dao Lâm của thiền sư Tuyết Đường.

3. Thiền Uyển Mông Cầu của một thiền sư đời Tống.

Về quyển thứ nhất và thứ hai ở bản Hán được ghép chung và còn có các tên khác như: Thiền Uyển Dao Lâm Chú, Thiền Uyển Mông Cầu Dao Lâm gồm 562 tắc. Riêng quyển ba, do một vị khuyết danh (mà người ta đoán là một thiền sư đời Tống) ra công sưu tập các tắc còn sót lại, được 144 tắc. Như thế quyển Vườn Thiền Rừng Ngọc sẽ có 706 mẫu chuyện thiền.

Trong lần tái bản này chúng tôi có sửa đổi về hình thức và nội dung tập sách như sau:

  • Về hình thức: Cứ 4 câu sắp xếp vào một bài, trong đó: phần chữ Hán và phần phiên âm được xếp ngang nhau; phần dịch nghĩa và chú thích được xếp chung liền dưới đó.
  • Về nội dung: Chúng tôi nhận thấy có 44 tắc mà thiền sư Tuyết Đường không tìm được xuất xứ. Riêng về phần chúng tôi trong khi đọc các sách thiền khác, tình cờ tìm được phần chú thích cho 10 tắc:

1. Thiên Bát khai hoa (tắc 35)

2. Qui Tông duệ thạch (tắc 65)

3. Từ Giác dưỡng mẫu (tắc 76)

4. Tứ hiền vấn đạo (tắc 81)

5. Tam Phật hạ ngữ (tắc 82)

6. Mộc Bình thảo lũ (tắc 158)

7. Thiên Cái dục thất (tắc 161)

8. Phần Dương lục nhân (tắc 199)

9. Thứ Công điểm nhãn (tắc 377)

10. Quốc sư thủy oản (tắc 522).

Có thể nói đây là một quyển sách nhập môn thiền học cho quí vị thiền sinh mới vào cửa thiền, và cũng là tài liệu giúp cho sự tra cứu các điển tích thiền rất tiện dụng.

Mặc dù đã cố gắng chỉnh sửa, bổ sung, song chắc chắn tập sách cũng không tránh khỏi những sai sót bất cập, mong người đọc lượng thứ.

Thông Thiền kính ghi.



Vào đời Ðường, Lý Hãn có trước một thiên “Mông Cầu” tiện cho kẻ sơ cơ học thuộc. Từ đó về sau, có một ít người phỏng tác loại sách Mông Cầu. Ở đây xin nêu ra một vài quyển như: Thuần Chính Mông Cầu, Tân Mông Cầu, Tục Mông Cầu v.v…

Quyển sách này có tên “Thiền Uyển Mông Cầu Dao Lâm” là do phối hợp hai phần: phần I tức quyển Thiền Uyển Mông Cầu và phần II tức quyển Thiền Uyển Dao Lâm.

Quyển Thiền Uyển Mông Cầu trên là do sư Chí Minh soạn ở chùa Thiếu Lâm, non Tung Sơn vào đời Nam Tống. Thiền sư Chí Minh bắt chước theo Lý Hãn, trích dẫn sử truyện, căn cứ vào các Tổ Lục rồi biên tập việc làm của các đời Tổ sư trong Thiền Lâm, trên từ Phật Thích Ca đến cuối là Hòa thượng Huyền Minh. Mỗi câu bốn chữ, cả thảy gồm trong 562 tắc thiền ngữ, dưới thể thơ Ngẫu đối, lời lẽ hài hòa hợp thành âm vận, giúp người học thuộc dễ dàng, từ vốn liếng này có thể soi lòng và biện đạo.

Ba mươi năm sau đó, cũng đời Nam Tống, vào niên hiệu Bảo Hựu thứ 3 (1255), tại Yên Kinh nơi chùa Ðại Vạn Thọ, Thiền sư Ðức Giản hiệu Tuyết Ðường, tham khảo trích dẫn các bộ loại như kinh Phổ Diệu, Truyền Đăng Lục, Phổ Đăng Lục, Ngũ Đăng Hội Nguyên, Phật Tổ Thống Kỉ, Tăng Bảo Lục v.v… chú thích sách này rõ ràng, làm cho mỗi câu thêm thi vị, rồi giao cho Ngọc Khê tiến hành việc khắc bản, lấy tên là Thiền Uyển Dao Lâm, được xếp vào Tục tạng chữ tập thứ 148.

Về sự lưu hành này tại Trung Quốc, đến nay cũng chưa biết rõ ràng, các tác giả ghi chép về Thiền học có Hòa thượng Nghĩa Ðế cho rằng: “Sách được lưu hành khá lâu ở Nhật Bản, tuy nhiên ở Trung Hoa thì chẳng còn. Theo ông Viễn Môn Trụ trong Ngũ Đăng Tục Lược thì vị tăng tên Tuyết Ðường Giản này thuộc môn hạ của Vạn Tùng”.

Nhờ sự kiện trên chúng ta có thể thấy ở Trung Hoa, sách này truyền bá chẳng được rộng rãi. Về niên đại truyền sang Nhật Bản cũng chưa rõ lắm. Nhờ bản chép tay thời Túc Lợi, khoảng niên hiệu Ðại Vĩnh (1521-1527), chúng ta mới biết có sách này lưu hành trong chốn tùng lâm từ trước. Ðến thời đại Ðức Xuyên (1615-1867), nó được khắc bản trước sau hai lần, thời gần đây lại được biên vào Tục Tạng Kinh. Thế thì, sách này há lại rơi vào điều hiềm nghi về văn tự thiền ư?

Than ôi! Tông phong Vạn Tùng làm sách này cốt muốn cho người chân tham thật chứng, trái lại bọn người cạn cợt lấy đó làm vốn riêng gây thành đề tài cho các cuộc tranh luận. Ðâu phải là trống đánh xuôi mà kèn thổi ngược?

Thế nhưng, theo chỗ nhận định của cư sĩ Sư Hiên thì “Sách này gồm có 2000 lời, phát minh 500 việc, lời lẽ sáng tỏ mà đầy đủ, sở học của Sư sâu mà rộng, đáng cho là cao tột trong Thiền môn. Biển pháp được đúc kết thành tiêu đề, khiến kẻ hậu học bớt được mười năm nhọc nhằn, thành tựu trí nhớ hơn nửa tạng. Vậy thì, công lao cùng lòng từ bi của Sư cũng đủ cho chúng ta thấy”.

Ở đây, miễn bàn những lời tán dương rườm rà, chỉ biết quyển Mông Cầu này ra đời nhằm mục đích giúp cho người mới vào cửa Thiền có tài liệu học tập và các điệu trong chùa giải trí bằng cách ngâm nga các thi kệ.

Các cư sĩ: Nhàn, Sư Hiên, Long Sơn đề tựa.


Tác giả là Thiền sư Chí Minh, tự là Bá Hôn, hiệu Lạc Chân Tử, lại có hiệu là Thố Am, người đời Tống ở An Châu (nay là huyện An Tân, Hà Bắc), con nhà họ Hác. Tính tình của Sư rất mực thước, dáng bên ngoài trong quê mùa chất phác, nhưng tinh thần bên trong rất là sáng suốt.

Ban đầu Sư ở chùa Hương Lâm (nay thuộc huyện Vấn, Tứ Xuyên). Nơi đây, Sư thụ giới cụ túc với Tịnh Công và ngày đêm tham cứu chẳng chút biếng trễ, lại đến thưa hỏi nơi thất Tịnh Phổ. Sau đó, tại chùa Ðông Lâm (nay thuộc Lô Sơn tỉnh Giang Tây), Sư triệt chứng. Ít lâu sau, Sư được tuyển vào chùa Siêu Hóa. Thời Nam Tống trong những năm 1226-1227, Sư nhận lời đại chúng mời về trụ chùa Thiếu Lâm thuộc Tung Sơn, Hà Nam. Chính tác phẩm Thiền Uyển Mông Cầu được hoàn thành trong lúc này.

Về sau, Sư tự làm một thiên trường ca rồi ra đi, đại chúng giữ lại chẳng được khiến mọi người càng kính ngưỡng cao đức của Sư. Ðiểm đáng tiếc là chúng ta chẳng rõ Sư mất vào năm nào, ở đâu, cùng tuổi hạ được bao nhiêu, chỉ biết Sư thuộc pháp phái Vạn Tùng.

Sau đây là một phần trong thiên trường ca do Sư làm trước khi ra đi:

Quán cơm trước núi mở cửa rồi,

Bánh to như đấu, bánh như rây,

Lạc Dương thành ấy nhiều đàn tín,

Ðua nhau bày cúng: chuyện vua tôi.

Lão nghèo nàn, tài kém cỏi,

Do đâu lão đến múa rối tồi!

Chống gậy thẳng lên Tung Dương Lộ

Cười chỉ núi xanh, về đi thôi!

Người chú thích sách này tên là Ðức Giản, tự Vô Tránh, hiệu Tuyết Ðường, nối pháp Thiền sư Hành Tú thuộc phái Vạn Tùng tông Tào Ðộng, trụ ở chùa Ðại Vạn Thọ ở Yên Kinh.

Ðời Nam Tống, triều vua Lý Tông, trong niên hiệu Bảo Hựu (1253 – 1258), Sư tìm tòi và dẫn các Kinh lục để chú giải cho quyển Thiền Mông Cầu, lấy tên là Thiền Uyển Dao Lâm. Sách này gồm sáu muôn lời, căn cứ vào nguyên bản của sư Chí Minh mà làm, thật là trên gấm lại thêm hoa. Ðáng tiếc là không làm sao biết rõ được tự truyện của Sư.


Bài 1

1. 釋 迦 七 步 — Thích Ca đi bảy bước

Thế Tôn giáng sinh một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, đi quanh bảy bước, mắt nhìn bốn phương nói:

– Trên trời dưới đất, chỉ có Ta là tôn quí.

· Khi Phật vừa đản sinh vào Vương cung của vua Tịnh Phạn, ngài phóng ánh sáng Ðại trí chiếu khắp mười phương thế giới; nơi mặt đất vọt lên các đóa sen vàng nâng đỡ hai chân của Phật. Ngài đi về Ðông, Tây, Nam, Bắc, mỗi hướng bảy bước, tay chỉ trời, tay chỉ đất, rống lên tiếng của loài sư tử: Mười phương đều tôn quí Ta!

(Theo: Kinh Phổ Diệu)

2. — Ðạt Ma ngồi chín năm

Sơ Tổ ở chùa Thiếu Lâm trên non Tung Sơn, ngồi xoay mặt vào vách chín năm, lúc bấy giờ mọi người đều chẳng lường được, gọi ngài là ông Bà-la-môn ngó vách.

· Ngài từ nước Lương qua nước Ngụy, đến Lạc Dương, ở chùa Thiếu Lâm ngồi xoay mặt vào vách chín năm rồi mới truyền cho Nhị Tổ.

(Theo: Truyền Đăng, quyển 3.)

3. — Linh Sơn thầm trao pháp

Thế Tôn ở trên hội Linh Sơn, giơ cành hoa thị chúng. Lúc ấy, đại chúng đều im lặng, chỉ có tôn giả Ca-diếp rạng mặt mỉm cười. Thế Tôn nói:

– Ta có Chính pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, chẳng lập văn tự, truyền ngoài giáo điển phó chúc cho Ma-ha Ca-diếp.

Thế Tôn sai Tôn giả Ca-diếp đến trước tháp Ða Tử phân tòa rồi bảo Ma-ha Ca-diếp ngồi, kế đó lấy y Tăng-già-lê đắp cho ngài, Thế Tôn bảo:

– Ta đem Chính pháp nhãn tạng thầm trao cho ông, ông phải hộ trì và truyền lại cho đời sau.

(Theo: Hội Nguyên, quyển 1.)

4. — Thiếu Thất chỉ truyền tâm

Buổi ban đầu, chư Tổ truyền pháp, ngoài Thiền ra còn dùng cả giáo thừa của Tam tạng kinh điển. Về sau, Tổ sư Ðạt Ma chỉ truyền tâm ấn, phá chấp hiển bày Thiền tông, nên nói truyền ngoài giáo điển, chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tính thành Phật.

· Bổ túc thêm: Tổ Ðạt Ma ở chùa Thiếu Lâm bảo ngài Huệ Khả: “Xưa kia Như Lai đem Chính pháp nhãn tạng trao cho ngài Ca-diếp rồi truyền dần đến Ta, nay Ta trao cho ông”.

(Theo: Truyền Đăng, quyển 3.)

Photobucket

Tựa “Phật Học Biểu Giải” của Tác giả

“Biểu giải” là đem nghĩa lý văn chương rườm rà làm thành sản phẩm tinh giản cô đọng, là đem một ít trí thức học thuật để biểu đạt, phơi bày một cách có tổ chức, có hệ thống. Biên soạn một bài “Biểu giải” thường phải tham khảo rất nhiều tài liệu có liên quan mới có thể sắp xếp thích đáng, bổ xuyết để hoàn thành.

Tôi nhờ vào phương tiện đọc sách, từng theo cách học Phật của kẻ sơ cơ, tham cứu tác phẩm của các bậc hiền tài đời trước, biên soạn 57 bài “Phật học biểu giải” (Biểu đồ giải thích Phật học). Việc làm này mặc dù không phải là một sáng kiến mới mẻ, nhưng cấu tạo nội dung lại có chỗ cải tiến phong phú. Đối với những ai nghiên cứu Phật học, “Biểu giải” này đáng được xem là có công dụng “bỏ rườm rà lấy tinh giản, xem qua là hiểu ngay”.

Mùa đông năm Dân Quốc thứ 65 (1976), “Nguyệt san Từ Vân” yêu cầu tôi cung cấp bản thảo. Khi ấy, ngoài việc soạn mục “Phật học vấn đáp” trên báo này, tôi cũng từng đem “Biểu giải” cho đăng lần lượt để lấp đầy số trang báo. Nay “Đài Bắc Phổ Môn văn khố” muốn đem tập “Biểu giải” này in thành sách để truyền bá rộng rãi. Các ngài có lòng hộ trì giáo pháp, cần cù vì đạo, tôi lẽ nào không quyên tặng, thành thực tùy hỷ, vui thích giúp đỡ để hoàn thành ?

Chỉ vì việc tu hành tự độ chưa siêng, đạo học còn nông cạn, thật tình lo sợ chỗ trình bày nghĩa lý vụng về hoặc có điều chi chưa ổn. Thế nên, kính mong các vị Thiện trí thức chớ tiếc lời chỉ giáo để tập sách này được hoàn bị hơn thì hân hạnh cho tôi lắm !

Đài Loan, tháng 2 năm 1980.

THÍCH TƯỜNG VÂN


TIỂU SỬ

Đại Lão Hòa Thượng thượng TƯỜNG hạ VÂN

Hòa thượng họ Lý húy Mạnh Tuyền, sinh năm Dân Quốc thứ 6 (1917) tại huyện Hải Thành, tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc, dòng dõi Nho học.

Từ bé, Hòa thượng đã giàu lòng thương yêu; lớn lên một chút ngài cảm nhận đời người ngắn ngủi, thế sự vô thường, nên tha thiết ngưỡng mộ chân đạo. Năm 20 tuổi, ngài phát nguyện thờ Phật ăn chay, lộ rõ chí xuất gia và theo học ở “Viện giảng dạy và học tập Phật học Bát-nhã ở Trường Xuân”, nghiên cứu nội điển.

Hồi còn trẻ, ngài từng làm ký giả, giáo sư. Sau đó ngài dời sang Đài Loan, lại cảm ngộ đời người vô thường, thế sự nhiều biến đổi nên chí xuất gia thường manh nha nơi lòng. Sau nhiều lần trắc trở, cuối cùng vào khoảng năm 1961, ngài đến chùa Viên Giác tại Đài Bắc, nương Hòa thượng thượng Huyền hạ Diệu làm thầy thế độ, thành tựu ước nguyện xuất gia. Khi ấy ngài được 45 tuổi, pháp danh Hội Nguyên, pháp hiệu Viên Định, nhưng phần lớn ngài dùng biệt hiệu Tường Vân trong các sách báo lưu hành. Cùng năm đó, ngài thọ giới cụ túc tại chùa Hải Hội ở Cơ Long do Trưởng lão Đạo Nguyên làm Hòa thượng đàn đầu.

Trong vòng 14 năm sau khi xuất gia, ngài lần lượt đến các chùa ở Đài Loan để xem Đại tạng, hoặc tu trì khổ hạnh, hoặc phát triển giáo nghĩa, hoặc chuyên tâm sáng tác, không cầu nổi tiếng trong chốn tùng lâm. Sau đó, do lời mời của giáo hội nên ngài bắt đầu tùy duyên độ chúng. Ngài từng giữ các chức vụ : Phó thư ký Giám sự ; Thường vụ Hội Phật giáo Đài Loan, người xử lý thường vụ Hội Phật giáo thành phố Đài Bắc; Chủ nhiệm ủy viên Hội Hoằng pháp Phật giáo Đài Loan, ủy viên Hội Văn Hiến, ủy viên Hội Xúc tiến quan hệ Phật giáo Trung – Nhật, Trung - Hàn, ủy viên Hội Truyền giới; thành viên ban giám đốc Hội sở Phật- đà Giáo dục cơ kim hội, Giám đốc tạp chí xã Phật đà giáo dục, uỷ viên chủ bút tư vấn biên soạn Phật học cho các tờ báo : Phật giáo Từ Minh nguyệt san, Giác Thế tuần san, Sư Tử hống nguyệt san, Từ Vân nguyệt san, Thiên Hoa tạp chí. Ngài còn làm A-xà- lê, tôn chứng cho ba đại giới đàn mở tại Hội Phật giáo Đài Loan, chùa Thanh Lương ở Đài Trung, chùa Linh Nham sơn ở Phố Lý. Hơn nữa, ngài còn nhận lời mời của các nơi giảng kinh hoằng pháp như: Từ Hàng đường ở Tịch Chỉ, Pháp Luân giảng đường, Linh Sơn giảng đường, Hoa Tạng giảng đường, và làm giáo sư Phật học tại các Phật học viện Hải Minh, Tịnh Giác.

Tác phẩm : Sám nguyện thất văn tập, Huệ Nhứ tập, Sám nguyện thất Phật học vấn đáp v.v... có trên 10 loại.

Hòa thượng cả đời phong cách cao siêu đức độ sáng ngời, không cậy nhờ, không quyên góp, tinh tấn tu trì dù ở ngõ hẻm cũng vui. Tánh tình chân thành chất phác, bốn chúng đều mến phục, rất được tôn sùng trong chốn tùng lâm. Một đời làm rạng rỡ Phật giáo hoằng pháp lợi sanh, tiếp nối huệ mạng của chư Phật mà hy sinh phụng sự, nhận lấy trọng trách, không từ khó nhọc không ngại oán hờn, hết lòng hết sức làm tròn bổn phận, quyết không từ chối ! Cuối cùng vì lao lực quá sức nên thành bệnh. Vào ngày 8 tháng 7 năm 1999 (nhằm ngày 25-5 âl), lúc xế trưa trong tiếng niệm Phật bi nghiêm của 2 đệ tử Dung Toàn và Nhã Huệ, ngài an tường thị tịch.Trước lúc lâm chung, ngài còn nhiều lần dặn dò đệ tử nhất thiết cần phải tinh tấn trì giới niệm Phật để liễu thoát sanh tử, đồng sanh Lạc quốc; cho đến việc hậu sự nhất thiết phải tổ chức đơn giản.

Hòa thượng ra đi cố nhiên là tự tại, nhưng chốn tùng lâm pháp vụ còn nhiều, chúng sanh sầu khổ chưa hết. Ngưỡng mong Hòa thượng thương xót chúng sanh nương nguyện lực tái lai.


THỂ LỆ CHUNG


1. Bản dịch Việt ngữ “Biểu đồ giải thích Phật học” của chúng tôi là căn cứ vào quyển “Phật học biểu giải” của H.T Thích Tường Vân bản mới nhất của tinh xá Tường Quang, Đài Loan, ấn tặng kết duyên vào tháng7 năm 2000.

2. Tập “Biểu đồ giải thích Phật học” này gồm 32 bài, mỗi bài có thể là1 hoặc 2 hoặc 3, 4, 5 biểu đồ, tổng cộng 57 biểu đồ như tác giả đã giới thiệu ở Lời tựa.

3. Mỗi bài có phần Tài liệu tham khảo riêng, ghi ở phần phụ chú.

4. Mỗi tựa đề đều được dịch nghĩa và có kèm phần phiên âm trong ngoặc đơn. Thí dụ: Ba nghiệp, mười nghiệp và sáu đường (Tam nghiệp, thập nghiệp dữ lục đạo).

5. Có những bài khuôn khổ quá lớn nên buộc lòng chúng tôi phải xếp đôi lại cho vừa tập sách.

Mục Lục

TỰA “PHẬT HỌC BIỂU GIẢI” CỦA TÁC GIẢ.

TIỂU SỬ ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG, THƯỢNG TƯỜNG HẠ VÂN

THỂ LỆ CHUNG.

BÀI 1. BA NGHIỆP, MƯỜI NGHIỆP CÙNG VỚI SÁU ĐƯỜNG (1 biểu đồ)

BÀI 2. CÕI NGƯỜI TRONG BỐN CHÂU (1 biểu đồ)

BÀI 3. CÕI TRỜI (1 biểu đồ)

BÀI 4. 25 HỮU, 3 CÕI, 6 ĐƯỜNG (1 biểu đồ)

BÀI 5. HAI LOẠI KHỔ, BA LOẠI KHỔ, 3 LOẠI KHỔ PHỐI VỚI 12 NHÂN DUYÊN, 8 LOẠI KHỔ, 10 LOẠI KHỔ Ở CÕI NGƯỜI (5 biểu đồ)

BÀI 6. BA THỨ CHƯỚNG (7 biểu đồ)

BÀI 7. NHÂN QUẢ KHỔ VUI TRONG 10 PHÁP GIỚI, GIÁC MÊ KHỔ VUI TRONG 10 PHÁP GIỚI (2 biểu đồ)

BÀI 8. TAM BẢO (1 biểu đồ)

BÀI 9. SO SÁNH CÔNG ĐỨC TAM BẢO (1 biểu đồ)

BÀI 10. BA THÂN VÀ BỐN CÕI NƯỚC (1 biểu đồ)

BÀI 11. BA TẠNG, BỐN TẠNG, NĂM TẠNG (1 biểu đồ)

BÀI 12. MƯỜI HAI THỂ LOẠI KINH (1 biểu đồ)

BÀI 13. LỊCH SỬ KẾT TẬP KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO (1 biểu đồ)

BÀI 14. BỘ PHÁI PHẬT GIÁO TIỂU THỪA ẤN ĐỘ (1 biểu đồ)

BÀI 15. SÁU TÔNG HOA NGHIÊM TÓM TẮT HAI MƯƠI BỘ PHÁI TIỂU THỪA ẤN ĐỘ (1 biểu đồ)

BÀI 16. BA DẤU ẤN CHÁNH PHÁP, BỐN DẤU ẤN CHÁNH PHÁP CỦA TIỂU THỪA; MỘT DẤU ẤN CHÁNH PHÁP CỦA ĐẠI THỪA, BỐN ĐIỀU Y CỨ, BỐN TRƯỜNG HỢP PHIÊN DỊCH, NĂM THỨ CHẲNG PHIÊN DỊCH (5 biểu đồ)

BÀI 17. BỐN THỨ TỨ ĐẾ (1 biểu đồ)

BÀI 18. BA ĐỜI HAI LỚP NHÂN QUẢ CỦA MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN VỚI HOẶC NGHIỆP KHỔ BA CHƯỚNG (1 biểu đồ)

BÀI 19. BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO (1 biểu đồ)

BÀI 20. SÁU ĐỘ VÀ MƯỜI ĐỘ, MƯỜI ĐỘ ĐỀU CÓ BA HẠNH (1 biểu đồ)

BÀI 21. BỐN TIÊU CHUẨN VỀ SỰ THẬT, BỐN TÂM BỒ-TÁT, BỐN TÂM VÔ LƯỢNG, BỐN HẠNH NHIẾP HÓA (4 biểu đồ)

BÀI 22. BẢY GIA TÀI CỦA BẬC THÁNH (4 biểu đồ)

BÀI 23. SỰ LÝ CỦA BA CÁCH SÁM HỐI (1 biểu đồ)

BÀI 24. ĐẠI CƯƠNG GIỚI HỌC (1 biểu đồ)

BÀI 25. NĂM GIỚI VÀ NĂM THƯỜNG. NĂM GIỚI VÀ MƯỜI ĐIỀU THIỆN (2 biểu đồ)

BÀI 26. NĂM UẨN VÀ BẢY ĐẠI (1 biểu đồ)

BÀI 27. SÁU CĂN, SÁU TRẦN, SÁU THỨC, MƯỜI HAI XỨ, MƯỜI TÁM GIỚI VÀ SẮC PHÁP, TÂM PHÁP (1 biểu đồ)

BÀI 28. TÁM THỨC, CHÍN THỨC VÀ BỐN TRÍ, NĂM TRÍ (1 biểu đồ)

BÀI 29. TÁM THỨC TÂM VƯƠNG VÀ NĂM MƯƠI MỐT TÂM SỞ (1 biểu đồ)

BÀI 30. MƯỜI SỬ VÀ HAI HOẶC (1 biểu đồ)

BÀI 31. MUÔN PHÁP CHỈ LÀ BIỂU HIỆN CỦA THỨC (1 biểu đồ)

BÀI 32. NĂM LẦN “500 NĂM”, THEO THỨ TỰ “500 NĂM”, NĂM ĐIỀU RỐI LOẠN THỜI MẠT PHÁP, NĂM PHÁP GIÚP CHO CHÁNH PHÁP BẤT DIỆT VÀO THỜI MẠT PHÁP. (4 biểu đồ)

TỪ ĐIỂN THIỀN TÔNG HÁN VIỆT

Photobucket

PL 2547 – 2004

THÔNG THIỀN – HÂN MẪN

Biên dịch



LỜI NÓI ĐẦU

Thiền tông – Căn cứ vào lịch sử hình thành và phát triển, bằng vào rất nhiều truyền thuyết sinh động và thiền ngữ kì dị tuyệt vời, cộng với ảnh hưởng dài lâu sâu sắc đối với văn hóa Đông phương, cùng sự xâm nhập không ngừng của nó vào nền văn hóa Tây phương hiện nay đã tạo thành một thế giới Thiền sâu xa và rộng lớn.

Trong thế giới thiền ấy, có lúc như hoa đỏ liễu xanh (Hoa hồng liễu lục), mắt ngang mũi dọc (Tỵ thụ nhãn hoành) rất phổ thông, rất bình thường; đôi khi như tuyết trắng trong lửa (Hồng lô thượng nhất điểm tuyết) thật đặc biệt, thật lạ lùng khiến mọi người vừa sợ vừa ngờ.

Thiền quả là cao xa khó hiểu nhưng lại gần gũi giản dị, vừa bình thường thực tế vừa siêu hình thần bí, khó nắm bắt, không thể nghĩ bàn, đầy ắp những câu đố khó hiểu. Song càng khó hiểu càng gợi cho người đọc, người nghe bao niềm say mê, bao nỗi thắc mắc….

Trong lần tái bản này, chúng tôi phiên dịch bổ sung gần năm trăm thuật ngữ và nay việc hiệu đính đã hoàn tất, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu quyển Từ điển Thiền tông Hán Việt đến quý độc giả gần xa.

Do tính phức tạp của thuật ngữ Thiền tông trong các tác phẩm chữ Hán về văn học Thiền, do điều kiện biên dịch và khả năng của dịch giả còn có hạn, Từ điển Thiền tông Hán Việt khó tránh khỏi những sơ suất này hay khác. Với lòng biết ơn sâu sắc, chúng tôi mong muốn quý độc giả cao minh chỉ giáo để sách này trong lần tái bản sau được hoàn chỉnh hơn.

THÔNG THIỀN - HÂN MẪN

Kính ghi


THỂ LỆ CHUNG

I. NỘI DUNG:

Sách này gồm khoảng 3.600 mục từ Thuật ngữ Thiền tông, bao gồm các loại:

Các thiền lâm phương ngữ: Văn toản thiết ngưu, Bả kế đầu nha, khả trung …

Các điển cố ngữ: Mạc-da kiếm, Một huyền cầm, Đạc lạc toản…

Các tục ngữ: dữ ma, tác ma sinh.

Các khẩu ngữ của Thiền sư: di, đốt, khứ, hả, dã, ni.

Các thành ngữ của dân gian Trung Quốc được Thiền sư thường sử dụng: Tác tặc nhân tâm hư, Lưỡng thái nhất tái, Nhất bão vong bách cơ..

Các hành nghiệp ngữ (ngôn ngữ trong nghề): Hắc tất dũng, Ha Phật mạ Tổ, Mại tử miêu đầu, Pháp khí, Pháp hiệu, Điển tọa, Tạng chủ, Thái đầu, Tổ ấn trùng quang…

II. CÁCH TRÌNH BÀY:

Các mục từ được xếp theo thứ tự mẫu tự tiếng Việt: A, Ă, Â, B, C, D, Đ, E, Ê, G, H, I, K, L, M, N, O, Ô, Ơ, P, Q, R, S, T, U, Ư, V, X, Y.

Dấu giọng theo bộ ký tự tiếng Việt: Ngang, sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng.

Mỗi một mục từ được trình bày như sau:

Tên mục từ bằng âm Hán Việt, kèm chữ Hán phồn thể.

Còn gọi: Tức là các từ đồng nghĩa.

Phần định nghĩa

Phần giải thích

Phần thí dụ

Theo: Liệt kê tài liệu tham khảo dẫn chứng (Phần lớn các mục từ không nêu phần này là căn cứ vào Thiền Tông Từ Điển của nhóm Viên Tân).

Xem: Mời xem các mục từ có liên quan.

III. KÝ HIỆU:

BNL: Bích Nham Lục

ĐSNL: Động Sơn Ngữ Lục

» «: Phần thí dụ trích dẫn bằng chữ Hán.

(): Lời bình của các Thiền sư xen kẽ trong các đoạn văn được trích dẫn.

(…): Lược bỏ khoảng giữa.

» «: Phần Việt dịch các đoạn văn được trích dẫn.

Thí dụ:

NHẤT CÚ ĐẠO TẬN 一 句 道 盡

Chỉ cần dùng một câu mà thông suốt được cốt tủy của Phật pháp.

Tắc 76, BNL ghi: »福 云。 施 者 受 者 二 俱 瞎 漢 (據 令 而 行。 一 句 道 盡。 罕 遇 其 人)。 – Bảo Phúc nói: Người cho, người nhận cả hai đều mù (Theo mệnh lệnh mà thi hành, chỉ cần nghe một câu mà thông suốt cốt tủy Phật pháp, ít gặp được người như thế)«.

Trong một thuật ngữ của Thiền sư dùng thường có 2 nghĩa:

Nghĩa đen, tức nghĩa bình thường của thành ngữ mà mọi người dân Trung Quốc đều có thể hiểu.

Nghĩa bóng, tức là nghĩa hợp với ý của Thiền sư muốn nói.

Tùy trường hợp, trong phần Việt dịch của phần trích dẫn, chúng tôi có khi dùng nghĩa bóng để phù hợp với văn cảnh.

Thí dụ:

1. Nghĩa đen:

DŨNG ĐỂ THOÁT

Cái thùng bị lủng đáy. (Nghĩa đen)

Thiền tông mượn từ này để chỉ cho trạng thái không còn mảy may nghi hoặc, không lưu lại bất cứ vật nào trong tâm. (Nghĩa bóng)

Tắc 22, BNL ghi: »後 到 德 山。 問 從 上 宗 乘 中 事。 學 人 還 有 分 也 無。 山 打 一 棒。 道 什 麼。 我 當 時 如 桶 底 脫 相 似。 Về sau, tôi đến Đức Sơn hỏi: Việc trong Tông thừa xưa kia, người học có phần chăng? Sơn đánh cho một gậy, bảo: Nói cái gì? Lúc ấy tôi như thùng lủng đáy«.

2. Nghĩa bóng:

BÁT THẢO CHIÊM PHONG

Vạch cỏ đón gió. (Nghĩa đen)

Thiền tông mượn từ này để chỉ cho việc đoạn trừ vọng tưởng, tham cứu đến chỗ huyền diệu. (Nghĩa bóng)

ĐSNL ghi: »此 去 澧 陵 攸 縣、 石 室 相 連、 有 雲 巖 道 人。 若 能 撥 草 瞻 風、 必 爲 子 之 所 重。 Ngươi đi đến Lễ Lăng ở huyện Du, nơi các thất đá liền nhau có một đạo nhân tên Vân Nham. Nếu người trừ được vọng tưởng, tham cứu đến chỗ huyền diệu, chắc chắn sẽ được y ta quý trọng.«

Ngoài ra, các thuật ngữ Hán Việt đồng nghĩa được giải thích qua một thuật ngữ mà soạn giả cho là tiêu biểu nhất, sẽ được xếp trong phần còn gọi.

Thí dụ:

THÂN TÂM NHẤT NHƯ

Còn gọi: Sắc tâm bất nhị, Tính tướng bất nhị.

IV. VIẾT TẮT:

Tên tác phẩm:

CĐTĐL: Cảnh Đức Truyền Đăng lục

CTTNL: Cổ Tôn Túc ngữ lục

DTNL: Duy Tắc ngữ lục

ĐSNL: Động Sơn Ngữ Lục

ĐQMT: Đại Quang Minh Tạng

GTPĐL: Gia Thái Phổ Đăng lục

HĐNL: Hư Đường ngữ lục

HSLNMDT: Hám Sơn Lão Nhân Mộng Du tập

KTTQTĐL: Kiến Trung Tịnh Quốc tục đăng lục

LĐHY: Liên Đăng Hội Yếu

MANL: Mật Am ngữ lục

MBTL: Minh Bản Tạp lục

MGNL: Minh Giác ngữ lục

NĐHN: Ngũ Đăng Hội Nguyên

NGCTT: Ngũ Gia Chính Tông Tán

NHQL: Nguyên Hiền quảng lục

NLNL: Nguyên Lai ngữ lục

NTNL: Như Tịnh ngữ lục

PDNL: Pháp Diễn ngữ lục

PDgNL: Phần Dương ngữ lục

PKNL: Phạm Kỳ ngữ lục

PQĐTĐ: Phật Quang Đại Từ Điển

TBCTT: Tăng Bảo Chính Tục truyện

TLTBT: Thiền Lâm Tăng Bảo truyện.

ThQST: Thiền Quan Sách Tiến

TUTA: Thiền Uyển Tập Anh

TĐT: Tổ Đường tập

TCTT: Tống Cao Tăng truyện

TTĐL: Tục Truyền Đăng lục

ThMMBTSTL: Thiên Mục Minh Bản Thiền sư tạp lục

Chữ viết tắt:

k. ng.: khẩu ngữ

X.: xem.

TRA NHANH TÁC PHẨM THIỀN TÔNG

Photobucket


LỜI NÓI ĐẦU

Thiền tạng chỉ là một bộ phận trong Đại tạng kinh, bao gồm một số kinh luận và ngữ lục, song số lượng tác phẩm Thiền học, nhất là hệ Thiền phát triển do Phật cùng chư vị Tổ sư trước tác để lại không hề nhỏ. Chính vì thế, khi bước chân vào thư viện Phật giáo, một thiền sinh nhập môn Hán tạng sẽ cảm thấy lúng túng, khó khăn để tìm một quyển sách Thiền bằng chữ Hán thích hợp với trình độ của mình.

Đối với những người chuyên tâm tu trì hoặc những thiền sinh đang hạ thủ công phu, có thể nói là qua việc tụng đọc, hành trì thì chỉ một hoặc vài quyển kinh, luận hay lục cũng đã quá đủ để làm tư lương trên lộ trình tu tập hay cũng đủ mang lại an vui trong cuộc sống.

Thế nhưng, đứng từ góc độ những người muốn tìm hiểu, học hỏi, hoặc với những ai bước đầu làm quen với các tác phẩm Thiền tông, thì một sự hiểu biết khái quát và cơ bản về Thiền tạng là rất cần thiết để giúp phát khởi lòng tin hoặc phát sinh niềm hứng thú định hướng cho việc tu tập. Đặc biệt với những vị đang nhận lãnh trách nhiệm xiển dương giáo pháp Thiền tông thì việc nghiên cứu học hỏi về Thiền tạng lại càng quan trọng hơn nữa.

Xuất phát từ những suy nghĩ đó, chúng tôi không nệ chỗ hiểu biết kém cõi, cố gắng cho ra đời tập sách Tra nhanh tác phẩm Thiền tông nhằm đáp ứng nhu cầu ấy. Rất mong được sự đồng tình và đóng góp chỉnh sửa cho tập sách này ngày càng phong phú và hoàn bị hơn.

Thiền viện Chơn Không, mùa An cư năm Kỷ Sửu

Thông Thiền

kính ghi.

A-B

AN BAN THỦ Ý KINH

Kinh căn bản của Thiền tông, do An Thế Cao dịch từ Phạn ra Hán, Trần Tuệ chú giải, thiền tăng Khương Tăng Hội (?-280) bổ túc và viết bài tựa. Đây là một trong những bộ kinh Phật được chú giải đầu tiên ở Giao Chỉ trong thời Phật giáo mới du nhập vào Việt Nam. Nội dung dạy cách tọa thiền đếm hơi thở, quán niệm hơi thở để giữ tâm ý không bị tán loạn.

BÁC SƠN ĐẠI NGHĨ HÒA THƯỢNG QUẢNG LỤC

X. Vô Dị Nguyên Lai Thiền sư quảng lục.

BÁCH TRƯỢNG HOÀI HẢI THIỀN SƯ NGỮ LỤC

Còn gọi: Hồng Châu Bách Trượng Sơn Đại Trí Thiền sư ngữ lục. Ngữ lục, 1 quyển, do Bách Trượng Hoài Hải soạn vào đời Đường, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 118, trang 161.

Nội dung gồm có những cơ duyên ngữ cú của Bách Trượng Hoài Hải như: »Linh quang độc diệu… tức như như Phật«. Từ những ngữ cú này chúng ta có thể nhận ra đặc điểm thiền học của Bách Trượng Hoài Hải, đó là chủ trương tâm tính chúng sinh xưa nay thành tựu viên mãn, chỉ cần chẳng bị vọng tưởng trói buộc liền chẳng khác với chư Phật.

BẠCH VÂN THỦ ĐOAN THIỀN SƯ QUẢNG LỤC

Còn gọi: Bạch Vân Đoan Hòa thượng ngữ lục. Ngữ lục, 4 quyển, do Bạch Vân Thủ Đoan soạn vào đời Tống, nhóm ông Xử Ngưng biên tập, được xếp vào Tục Tạng kinh, tập 120, trang 400, Thiền tông toàn thư tập 40 trang 41. Nội dung bao gồm các ngữ lục do đệ tử của Thủ Đoan biên tập tại 6 nơi: Thiền viện Viên Thông Sùng Thắng ở Giang Châu; Thiền viện Thừa Thiên; Thiền viện Chứng Đạo, núi Pháp Hoa ở Thư Châu; Thiền viện Càn Minh ở núi Long Môn; Thiền viện Hưng Hóa; Thiền viện Hải Hội ở núi Bạch Vân; cho đến các kệ tụng, 100 tắc tụng cổ và bài tựa Tổ Đường Cương Kỷ.

BÀNG CƯ SĨ NGỮ LỤC

Ngữ lục 3 quyển, do Bàng Uẩn soạn vào đời Đường, Vu Địch biên tập, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 120, trang 55, Thiền tông toàn thư tập 39 trang 231..

Quyển 1: Cơ duyên đối thoại giữa Bàng Uẩn với các vị Mã Tổ, Thạch Đầu Hy Thiên, Đan Hà Thiên Nhiên, Phổ Tế, Tùng Sơn, Đại Mai; hiển thị cơ dụng Không Không vô tướng, vô vi, vô ngã của ông.

Quyển 2, 3: Thơ ngũ ngôn, thất ngôn và các lời nói vụn vặt, đáng làm tấm gương cho người học tu tập.

BẢO CẢNH TAM MUỘI BẢN NGHĨA

Sách, 1 quyển, do Hành Sách soạn vào đời Thanh, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 111, trang 267, Thiền tông toàn thư tập 94 trang 335. Sư dùng 6 thứ sách tranh: Bảo Cảnh Tam muội, Thiên Chính hồi hỗ, Tam điệp phân quái, Ngũ biến thành vị, Nhị dụ hiển pháp, Lục hào nhiếp nghĩa để nêu lên tinh nghĩa Trùng ly lục hào, Chính thiên hồi hỗ và giải thích cặn kẽ thuyết ngũ vị.

BẢO CẢNH TAM MUỘI CA

Còn gọi: Động Sơn Lương Giới Thiền sư Bảo Cảnh Tam Muội, Bảo Cảnh Tam Muội. Sách, 1 thiên, do Động Sơn Lương Giới soạn vào đời Đường. Thiên này ghi lại huyền chỉ chính thiên hồi hỗ của tông Tào Động bằng thể ca ngâm. Thuyết Chính thiên hồi hỗ thật ra bắt nguồn từ Tham Đồng Khế do Thạch Đầu Hy Thiên soạn. Sau đó Thạch Đầu truyền cho Dược Sơn, Dược Sơn truyền cho Vân Nham, Vân Nham truyền cho Động Sơn. Đến đời Động Sơn mới tập đại thành thuyết ngũ vị, nên thiên này và Tham Đồng Khế đồng là sách căn bản của tông Tào Động, do đó rất được xem trọng. Toàn thiên làm theo thể tứ ngôn, gồm 94 câu, 376 chữ, được xếp vào Quân Châu Động Sơn Ngộ Bản Thiền sư ngữ lục, Nhân Thiên Nhãn Mục q. 3.

Các sách chú thích có:

Bảo Cảnh Tam Muội Huyền Nghĩa.

Bảo Cảnh Tam Muội Bản Nghĩa.

Bảo Cảnh Tam Muội Nguyên Tông Biện Mậu.

BẢO CẢNH TAM MUỘI HUYỀN NGHĨA

Sách, 1 quyển, do Vân Ngoại Vân Tụ soạn vào đời Tống, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 111, trang 222.

Vân Tụ đem Bảo Cảnh Tam Muội Ca chú thích tỉ mỉ để giải thích nguyên nghĩa vi diệu của nó. Sách này được phụ lục ở quyển hạ của Trùng Biên Tào Động Ngũ Vị Hiển Quyết.

BẢO CẢNH TAM MUỘI NGUYÊN TÔNG BIỆN MẬU

Sách, 1 quyển, do Vân Tông Tịnh Nột soạn vào đời Thanh, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 111, trang 279, Thiền tông toàn thư tập 94 trang 349.

Tịnh Nột trình bày và phân tích bản nghĩa Bảo Cảnh Tam-muội, giải thích Trùng ly lục hào, Chính thiên hồi hỗ của Vân Nham. Trình bày và giải thích về việc lấy: Chính thiên của Động Sơn Lương Giới làm căn bản để lập Ngũ vị Công huân, Công huân của Tào Sơn Bản Tịch làm căn bản để lập Ngũ vị quân thần, Chính thiên Công huân của Thạch Sương làm căn bản để lập Ngũ vị Vương tử, mục đích nhằm hiển bày ý chỉ của »Bảo Cảnh Tam Muội Ca«.

BẢO GIÁC TỔ TÂM THIỀN SƯ NGỮ LỤC

Còn gọi: Hoàng Long Hối Đường Tâm Hòa thượng ngữ lục, Hoàng Long Am Chủ ngữ lục, Hối Đường Hòa thượng ngữ lục. Ngữ lục, 1 quyển do Hối Đường Tổ Tâm soạn vào đời Tống, Tử Hòa ký lục, Trọng Giới trùng biên. Nội dung gồm có: Những lời thượng đường của Tổ Tâm, Hỏi đáp thay trong thất, Cử cổ tắc trong thất, Kệ tụng. Sách này được xuất bản vào niên hiệu Nguyên Phong thứ 1 (1078) đời Tống và được xếp vào Hoàng Long Tứ Gia lục, q. 2, Thiền tông toàn thư tập 41 trang 747.

BẢO HOA SƠN CHÍ

Chí, 15 quyển, do Lưu Danh Phương soạn vào đời Thanh. Núi Bảo Hoa nằm ở huyện Cú Dung, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Tương truyền nơi đây là đạo tràng của Thiền sư Bảo Chí, do vì lâu đời nên bị hoang phế. Mãi đến niên hiệu Vạn Lịch (1573-1619) đời Minh, thiền sư Diệu Phong xây điện bằng đồng đặt tên là »Thánh Hóa Long Xương Tự«. Khoảng niên hiệu Khang Hy (1662-1722) đời Thanh, được sắc tứ là »Huệ Cư Tự«, do đây mà nổi tiếng ở đời. Khi ấy có Lưu Danh Phương soạn sơn chí, chia làm 24 loại: Sơn đồ, hình thắng, tinh dã, sơn thủy, kiến trí, cổ tích, linh dị, cao tăng, luật sư, bi minh, bi ký, tháp minh, chiếu sắc, tấu sớ, công di, ký, phú, tự, truyện, tán, khảo, thư, khải, thi. Tuy sách này có tên là Sơn chí nhưng kỳ thực vì Huệ Cư Tự mà làm, có khắc bản vào đời Thanh.

BẢO LÂM TRUYỆN

Còn gọi: Đại Đường Thiều Châu Song Phong Sơn Tào Khê Bảo Lâm truyện, Tào Khê Bảo Lâm truyện, Song Phong Sơn Tào Khê Bảo Lâm truyện. Truyện, 10 quyển, do Trí Cự soạn vào niên hiệu Trinh Nguyên thứ 17 (801) đời Đường, được xếp vào Tống Tạng Di Trân.

Chùa Bảo Lâm ở Tào Khê, Thiều Châu là đạo tràng của Tổ Huệ Năng tuyên dương Thiền pháp nên lấy đây làm tên sách để làm sáng tỏ pháp thống của Ngài. Nội dung gồm có những tác phẩm về lịch sử Thiền tông như: Đàn Kinh, Ngũ Minh tập, Tục Pháp truyện, Quang Xán lục, Lịch Đại Pháp Bảo ký, chủ trương có sự truyền thừa của 28 vị Tổ. Sau đó còn có: Tổ Đường tập, Cảnh Đức Truyền Đăng lục, nhằm xác định chỗ truyền của thuyết 28 vị Tổ. Trí Cự viết sách này nhằm mục đích luận giải rõ ràng về sự quan hệ giữa Tôn giả Sư Tử và Bồ-đề Đạt-ma. Thế nên, khi sách này ra đời thì bị các thiền sư đời sau viết sách chê trách.

BÁT-NHÃ TRỰC GIẢI

Kinh sớ, 1 quyển, do Thanh Đàm Minh Chính (Thiền Sư Việt Nam) giải, Thanh Thành sao, Thanh Đức chép. Nội dung bao gồm:

Lời tựa khắc kinh của Hội Phật Giáo Bắc Kỳ năm 1943.

Lời tựa dẫn của Tỳ kheo Thanh Hanh vào năm thứ 9 (1933) Hoàng triều Bảo Đại.

Tựa của ngài Minh Chính.

Phần trực giải.

Phần Kệ tụng gồm: Mười tắc cương lĩnh; bốn phần »Tín, giải, hạnh, chứng« để chỉ dạy phương pháp tu trì chính pháp; hai mươi thiên hậu bạt để xiển dương công năng chí cực đốn liễu; bốn câu kệ Bát-nhã của Cổ đức; Duy tâm thức quán tứ trí luận của Bồ Tát Mã Minh; kệ Sáu căn bảy đại của Tổ Trúc Lâm Điều Ngự để diễn rộng tông chỉ của Tâm Kinh.

Phần phụ lục: Huệ Năng Đệ lục tổ Lạc Đạo Ca.

Sách này được khắc bản vào niên hiệu Thành Thái thứ 15 (1903).

BẮC GIẢN CƯ GIẢN THIỀN SƯ NGỮ LỤC

Còn gọi: Bắc Giản Hòa thượng ngữ lục, Bắc Giản ngữ lục. Ngữ lục, 1 quyển, do Bắc Giản Cư Giản soạn vào đời Tống, Vật Sơ Đại Quan biên tập, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 121, trang 128, Thiền tông toàn thư tập 46 trang 1. Nội dung bao gồm ngữ lục của Cư Giản tại viện Bát-nhã ở Đài Châu, chùa Thiết Quan Âm ở Hồ Châu, chùa Viên Giác ở An Kiết Châu, chùa Huệ Nhật ở phủ Bình Giang, và các phần Tiểu tham, Bỉnh phất, Cáo hương phổ thuyết, Tụng cổ, Kệ tụng, Tiểu Phật sự. Có phụ lục lời tựa của các vị Thạch Khê Tâm Nguyệt…

BÍCH NHAM LỤC

Gọi đủ: Phật Quả Viên Ngộ Thiền sư Bích Nham lục, còn gọi: Bích Nham tập. Lục, 10 quyển, do Tuyết Đậu tụng cổ, Viên Ngộ Khắc Cần bình xướng vào đời Tống, Phổ Chiếu biên tập, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 117, trang 251, Thiền tông toàn thư tập 89 trang 1.

Từ trong ngữ lục Thiền tông, Tuyết Đậu Trọng Hiển tuyển ra 100 tắc công án (lấy tông Vân Môn làm trọng điểm), sau mỗi công án Ngài dùng thơ để bình thuyết (Tụng), nhằm chỉ dạy cho người học thiền. Về sau gọi sách này là »Tụng Cổ Bách Tắc« (100 tắc Tụng cổ). Khoảng đầu niên hiệu Chính Hòa (1111) đời Tống, Viên Ngộ Khắc Cần trụ trì viện Linh Tuyền ở Giáp Sơn, thể theo lời yêu cầu của Trương Thương Anh, thuyết giảng về 100 tắc tụng cổ, đệ tử của sư là Phổ Chiếu ghi chép, biên tập lại thành sách. Vì trong thiền lâm gọi Giáp Sơn là Bích Nham, nhân đó gọi sách này là Bích Nham lục.

Bích Nham lục lấy »Tụng Cổ Bách Tắc« của Thiền sư Tuyết Đậu làm căn bản, Thiền sư Viên Ngộ giảng một đoạn »Thùy thị« trước mỗi tắc công án, trong mỗi tắc công án, tụng cổ đều có hạ »trước ngữ« và sau đó lại »bình xướng« để dẫn đường mở lối cho người học đạo. Quyển lục này sau khi được xuất bản, dư luận chốn Thiền lâm khen chê chẳng đồng. Nhóm khen cho rằng sách này có giá trị rất cao, bảo là »Tông môn đệ nhất thư« (Quyển sách hạng nhất trong Thiền tông), và sau đó không ít tác phẩm mô phỏng sách này liên tiếp ra đời. Nhóm chê bảo rằng sách này thuộc loại trau chuốt văn chương làm xiếc câu chữ, trái với tông chỉ »trực chỉ nhân tâm« của Thiền tông, khiến người học thiền chạy theo hình thức mà không thật ngộ, cho nên Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo vì cứu tệ nạn này mà cương quyết thiêu hủy kiệt tác của Thầy mình và cấm chỉ lưu truyền.

Bích Nham lục sau khi bị thiêu hủy hơn 100 năm, đến niên hiệu Đại Đức thứ 1 (1297) đời Nguyên Thành Tông, cư sĩ Trương Minh Viễn ở Hàng Châu sưu tập các bản còn sót lại ở các nơi, giảo chính rồi cho tái bản. Quyển lục này là mẫu mực của Tông môn, là kim chỉ nam đi biển, là sao Bắc Đẩu trong đêm tối.

BIỆN NGỤY LỤC

Còn gọi: Chí Nguyên Biện Ngụy lục. Lục, 5 quyển, do Tường Mại soạn vào đời Nguyên, được xếp vào Đại Chính Tạng tập 52, trang 751. Vào niên hiệu Chí Nguyên thứ 28 (1291) đời Nguyên, Tường Mại phụng sắc soạn sách này để bài xích ngụy thuyết của Đạo giáo. Bởi vì các vị của phái Toàn Chân là Khưu Xử Cơ, Lý Chí Thường cưỡng chiếm 482 ngôi tự viện, phá hủy tượng Phật, bảo tháp, xây dựng lại làm Đạo quán, truyền bá »Lão Tử Hóa Hồ Kinh« và »Lão Tử Bát Thập Nhất Hóa Đồ«, đưa đến chỗ tranh luận kịch liệt giữa 2 giáo: Phật và Đạo. Nửa phần trước của Biện Ngụy lục gồm 14 thiên bài xích Đạo giáo và sách vở của họ. Nửa phần sau kể lại ngọn nguồn việc triều đình nhà Nguyên cho 2 giáo Phật và Đạo biện luận chân ngụy. Phụ lục các văn hiến có liên quan.

BỈNH PHẤT NGỮ LỤC

Gọi đủ: Cổ Sơn Vi Lâm Thiền sư Cư Thủ Tọa Liêu ngữ lục. Còn gọi: Vi Lâm Thiền sư Bỉnh Phất ngữ lục, Vi Lâm Đạo Bái Thiền sư Bỉnh Phất ngữ lục. Ngữ lục, 2 quyển, do Vi Lâm Đạo Bái soạn vào đời Thanh, Thái Tịnh ghi chép, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 125. Nội dung gồm có: Pháp ngữ lúc bỉnh phất, trà thoại, cử cổ, Phật sự, kệ, tụng, tán của thiền sư Đại Bái khi ngài ở Cổ Sơn, Phúc Châu.

Quyển cuối là phần phụ lục »Hộc Lâm Ai Khổn« 1 quyển, là bài văn tưởng niệm về Thầy của sư là Vĩnh Giác Nguyên Hiền. Nội dung bao gồm: Tiên Hòa thượng Quy Chân Ký, lời dạy sau cùng, Tế văn, Tháp chí, Khởi Khám Cáo văn, Phong tháp cáo văn, cho đến lời bạt của vị tăng Nhật Bản là Liên Sơn Văn Dị.

BỒ ĐỀ ĐẠT MA NAM TÔNG ĐỊNH THỊ PHI LUẬN

Luận nghị, không chia quyển, do Thần Hội thuật vào đời Đường, Độc Cô Bái ghi và viết lời tựa. Đây là quyển còn sót lại (mất nửa phần sau) của bản chép tay ở Đôn Hoàng, ghi chép lại việc biện luận chính tà, thị phi giữa Thần Hội (đại diện cho Nam Tông) và Sùng Viễn (đại diện cho Bắc Tông) tại đại hội Vô Già tổ chức ở chùa Đại Vân, Hoạt Đài, Hà Nam. Toàn thiên sử dụng hình thức vấn đáp. Bài tựa của Độc Cô Bái cũng dùng hình thức vấn đáp, nội dung chính của nó cũng là ghi chép lại những lời nói của Thần Hội.

Thiên giữa chỉ ra: »Đạt-ma muốn khai Tri kiến Phật cho là phải thầm khế hợp nên truyền một tấm ca-sa, cho là pháp tín nên trao cho Huệ Khả, Huệ Khả truyền lại Tăng Xán, Tăng Xán truyền lại Đạo Tín, Đạo Tín truyền lại Hoằng Nhẫn, Hoằng Nhẫn truyền lại Huệ Năng, 6 đời Tổ sư truyền nhau, liên tục không dứt. Thần Hội đã dựng lên ngọn cờ tiên tiến, chứng cứ xác đáng về thế phổ chính tông của 6 đời Tổ sư Thiền tông Trung Hoa. Việc này đối với những vị tự xưng Bắc Tông là Chính thống chính là một đòn đả kích trí mạng, và có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của Thiền tông đời sau.

Sách này được xếp vào »Thần Hội Hòa thượng di tập« do Hồ Thích hiệu đính bản Đôn Hoàng (được chép tay vào đời Đường).

BỔ THIỀN LÂM TĂNG BẢO TRUYỆN

Truyện ký, 1 quyển, do Khánh Lão soạn vào đời Tống. Sách này viết thêm truyện ký của 3 người, sau truyện có tán, thể lệ giống như »Thiền Lâm Tăng Bảo truyện«, văn chương trang nhã, được ra mắt vào đời Tống và phụ vào sau bộ Thiền Lâm Tăng Bảo truyện, được xếp vào Thiền tông toàn thư tập 4 trang 547.

BÙI HƯU THẬP DI VẤN

X. Thiền Môn Sư Tư Thừa Tập Đồ.

BÚT KÝ

Thể loại văn xuôi tự sự, ghi lại con người và sự việc trong Thiền lâm. Thí dụ: Tông Môn Võ Khố của Đại Huệ Tông Cảo, Lâm Gian Lục của Huệ Hồng soạn, La Hồ Dã lục của Hiểu Oánh soạn, Vân Ngọa Kỷ đàm do Hiểu Oánh soạn, Tùng Lâm Thịnh Sự do Đạo Dung soạn, Nhân Thiên Bảo Giám do Đàm Tú soạn, Sơn Am Tạp lục do Vô Uấn soạn đều thuộc thể loại này.