Thứ Tư, 3 tháng 3, 2010

THƠ THIỀN ĐƯỜNG TỐNG

Photobucket

LỜI ĐẦU SÁCH

Trong khi dịch quyển “Thiền Môn Khai Ngộ Thi Nhị Bách Thủ” của Đỗ Tùng Bách, chúng tôi nhận thấy tác giả của các bài thơ thiền được dẫn trong sách này hầu hết đều thuộc vào hai đời Đường, Tống. Mặc dù nội dung các bài thơ không phải đều là thơ khai ngộ, nhưng tất cả đều mang lại ít nhiều thiền vị cho nên chúng tôi mạo muội đổi nhan đề sách là “Thơ Thiền Đường Tống”. Chúng tôi xin chân thành cáo lỗi và xin phép ông Đỗ Tùng Bách cho chúng tôi được dịch quyển sách trên ra Việt ngữ.

Người xưa bàn về thơ thường ca ngợi: “Thịnh Đường, Long Tống”. Lời nói nầy đã gợi lên một thuở vàng son, một thời hưng thịnh của thơ Đường Tống, trong đó bao gồm cả thơ Thiền. Lại nữa, trong số “Đường Tống Bát Đại Gia” thì đã có 4 vị có tên trong quyển sách này. Đó là : Liễu Tôn Nguyên, Vương An Thạch, Tô Thức và Tô Triệt.. Riêng về từ khúc, thời Tống chính là đỉnh cao nhất trong lịch sử của thể loại này, với Hoàng Đình Kiên là tay cự phách về từ và cũng là lãnh tụ của Giang Tây Thi Phái trong chương cuối của quyển “Thơ Thiền Đường Tống.”

Chúng ta cũng được biết Hàn Dũ hỏi đạo nơi Thiền sư Đại Điên, Liễu Tôn Nguyên viết văn bia cho Lục Tổ, Tô Đông Pha tham vấn ngài Phật Ấn Liễu Nguyên, Tô Triệt yết kiến Thiền sư Thượng Lam Thuận, Vương An Thạch tham kiến ngài Tưởng Sơn Tán Nguyên, Hoàng Đình Kiên hỏi đạo Thiền sư Hối Đường Tổ Tâm... Như thế đủ biết sở học cùng công phu tu chứng của chư vị thiền sư như thế nào rồi. Chúng ta cần điểm qua những tác phẩm thi ca của các thiền sư được đưa vào Đại tạng kinh như dưới đây :

· Đời Đường :

- Chứng Đạo Ca của Vĩnh Gia Huyền Giác.

- Tham Đồng Khế và Thảo Am Ca của Thạch Đầu Hy Thiên.

- Bảo Cảnh Tam Muội của Động Sơn Ngộ Bổn.

· Đời Tống :

- Linh Khê Ca của Phần Dương Thiện Chiêu

- 100 tắc tụng cổ trong Thung Dung Lục của Thiên Đồng Chánh Giác.

- 100 tắc tụng cổ trong Không Cốc Tập của Đầu Tử Nghĩa Thanh.

- 100 tắc tụng cổ trong Bích Nham Lục của Tuyết Đậu Trùng Hiển.

- Lãnh Trai Dạ Thoại của Huệ Hồng Giác Phạm.

Những sáng tác nêu trên được trích dẫn trong sách này hiển bày sự uyên bác và tài năng thi ca của chư sư. Thơ Thiền Đường Tống với cách diễn đạt cực kỳ giản dị lại hàm chứa một triết lý sâu xa về cuộc đời, về thái độ của con người đối với thiên nhiên, về những cảm xúc sâu lắng. Các thiền sư không bao giờ giảng giải rõ cho đệ tử mà chỉ dùng phương pháp kỹ xảo khiến cho họ bừng ngộ. Đó chính là những nét độc đáo, sâu sắc hàm súc “ý tại ngôn ngoại” của Thơ Thiền Đường Tống. “Nhà thơ đã từ tốn hiển bày một thế giới, rồi lẳng lặng ẩn mình trong bóng tối, để cho thơ tự nói”. Khi đưa ra nhận thức sâu xa này, Emily Dickinson cảm nghiệm được cái ảo diệu của thiền, cái năng lực chuyển hóa khổ đau thành cái đẹp và triển khai cuộc sống con người đến vô hạn của thơ và đạo. Triết gia Trung Hoa Đường Tống nhìn đời như một thi nhân mà thi nhân nhìn đời như một triết gia. Các thi nhân Đường Tống đứng trước vũ trụ bao la suy tư về số kiếp của mình. Sự suy tư này được hình tượng hóa bằng những lời thơ để nhòe bớt góc cạnh. Tuy có giọng văn sầu cảm man mác song cuối cùng trong thơ thiền Đường Tống vẫn mang sắc thái siêu thoát ...

Về thể loại chuyển dịch phần lớn chúng tôi dịch theo nguyên thể, riêng về thơ ngũ ngôn ý quá hàm súc nên phải dịch ra lục bát hoặc thể thất ngôn. Dựa vào thủ pháp phác diễn, đối lập, nhất là đối lập giữa cái đang diễn tiến và cái nhận thức đột ngột, chúng tôi cố gắng để không đánh mất cái thần trong nguyên tác khi chuyển dịch.

Chúng tôi xin thành kính tri ân chư vị ân sư cùng quý sư cô Thiền viện Chơn Không và Viên Chiếu đã góp ý sửa chữa nội dung lẫn hình thức của tập sách. Nếu như còn có lỗi lầm nào khác là do sự hiểu biết của chúng tôi còn non kém, kính mong các bậc cao minh chỉ điểm cho để tập sách này được hoàn chỉnh trong lần tái bản sau.

Thông Thiền

Kính ghi

l

TỰA CỦA TÁC GIẢ

Trong khi viết luận án tiến sĩ, tôi thường tiếp xúc với thơ thiền tiềm tàng trong kinh tạng, vườn thiền đẹp đẽ sâu xa ấy đã lôi cuốn tôi, hấp dẫn tôi. Câu “Bài bài không sáo rỗng, chuyên nói về nỗi khốn khổ trong cuộc sống con người.” của Bạch Cư Dị rất ít nhà thơ làm được, mặc dù họ đem câu nói của họ Bạch làm mục tiêu để sáng tác thi ca. Nay đọc tập thơ của các thi nhân, chúng ta cũng cảm thấy chưa thể hiện trọn vẹn được điều này. Nhưng thơ của các thiền nhân, thì đã đạt đến chỗ “Bài bài không sáo rỗng” mỗi lờihay ý đẹp, đều ẩn ý thiền. Gần đây, người ta đem “Vòng nguyệt quế của thi nhân triết lý” để tặng cho thi sĩ Ấn Độ là Tagore, khiến chúng ta nhớ đến các bậc đại gia trong thơ thiền như : Đại sư Vĩnh Gia, Tuyết Đậu Trùng Hiển, Đan Hà Tử Thuần, Thiên Đồng Chánh Giác, Đầu Tử Nghĩa Thanh. Các bậc đại gia này mới thật xứng đáng với danh hiệu ấy. Đặc biệt là Tụng Cổ Liên Châu Thông TậpTông Giám Pháp Lâm thu thập toàn là các bài thơ, tụng cổ ; một mặt khen ngợi công án cổ nhân, một mặt biểu đạt cảnh giới ngộ nhập của chính mình. Không chỉ có lời huyền diệu ý sâu kín, từ ngữ hay đẹp lưu hoài ngàn năm, dư vị vô cùng, ngay cả những kẻ quê mùa thô lỗ cũng thấu đạt chỗ ngụ ý sâu xa ngoài lời. Do những đặc điểm ấy thơ thiền so với nhà thơ của thế tục hay sáng tác “thương yêu kiểu trai gái, la cà quán rượu” và “không bệnh mà rên rỉ” cách nhau rất xa. Nếu như Tagore có đọc các bài thơ thiền, chẳng biết ông có lãnh hội được hay không mà đã tự cảm thấy thẹn rằng mình chẳng bằng các nhà sư. Thế nhưng những đóa hoa đẹp chốn vườn thiền ấy chẳng được mọi người biết đến, cũng bởi nhiều lý do sau :

Một, sau đời Đường Tống, Thiền học chìm mất, Giáo Thiền hỗn hợp làm Thiền Tông mất đi đặc tính ban đầu của nó. Do vì mất đi vẻ đẹp và tiếng tăm nên thơ thiền đã bị ảnh hưởng lớn, như ngọc quí lấm bụi nhơ, làm vẩn đục ánh sáng của nó.

Hai, bởi Thiền Tông chẳng lập văn tự liền cho rằng Thiền không có khả năng biểu hiện bằng ngôn ngữ, văn tự. Cố nhiên tự tánh diệu thể không có đối đãi chủ khách, năng sở, không có chỗ trống cho năng thuyết và sở thuyết, cho nên bảo : “Nói như một vật thì chẳng trúng.” Theo chỗ thể hội đạo lý mà nói, cần dẹp bỏ tình thức ý tưởng, như ngu như ngốc, âm thầm khế hội, tức là chỗ nói : “Đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt.Trừ đối tượng và thời điểm không nên nói, ngoài ra đều có thể thương lượng tham cứu nên có các thứ ngữ lục của Tổ sư Thiền Tông nói ra như mây như mưa. Do vì trên Diệu cao phong chẳng cho thương lượng còn ở Ngọn núi thứ hai thì cho riêng hội (tư hội), nên thơ thiền từ Hình nhi hạ để tỷ dụ Hình nhi thượng, song đáng tiếc có người ngộ nhận chỗ chẳng lập văn tự khiến đưa đến chỗ xem thường.

Ba, từ trước đến nay phần lớn các thi nhân coi rẻ thơ của các nhà tu hành, như Tô Đông Pha chê ngài Huệ Thông : “Phong cách nhã đạm đến ông không giữ được sao ?” là một ví dụ, nên những điều mà nhà thơ biết chẳng qua chỉ là một phần trong số ngàn muôn phần, đại khái không ngoài thơ của các thiền nhân mà trong các thi thoại luận đến.

Bởi ba điểm trên, khiến cho thơ của nhà thiền không còn rực rỡ, ở trong cõi thơ, mất đi vẻ quý hiếm. Như thế chẳng những là việc thiếu sót mà còn là việc đáng giận. Vì thế mục đích của việc soạn sách này chính là muốn làm sáng tỏ chỗ thầm kín của người trước, trao trả lại vẻ đẹp cho hạt minh châu. Nhưng còn phải thấu rõ đặc tính của Thiền Tông và ảnh hưởng của nó đến Văn nghệ học thuật Trung Quốc, sự hình thành của thơ tụng cổ, địa vị của thơ thiền ở trong thơ ngụ lý mới có thể biết được cội nguồn, không đến nỗi hiểu lầm rồi chấp trước làm ảnh hưởng đến việc tìm hiểu thơ thiền :

1. Đặc tính của Thiền Tông :

Thiền Tông là tông phái Phật giáo rất sâu kín rất kỳ đặc trong lịch sử tôn giáo Trung Quốc. Theo chỗ kiến lập và phát triển Thiền Tông mà luận thì lúc Tổ Đạt-ma đến Trung Hoa là kiến lập, đại khái vào đời Lương, ban đầu mỗi đời một thầy truyền cho một trò, đến đời Ngũ Tổ hoằng dương, sau đó là Nam tông Bắc phái, trội hơn vào thời ấy, năm tông hai phái bao trùm thiên hạ là giai đoạn phát triển. Thiền Tông từ một tông nhỏ do một người truyền pháp trải qua vài trăm năm đã trở thành một tông phái lớn bị các tông phái khác trong Phật giáo chống đối, nhưng lại có cái khí thế hơn hẳn. Một sự kiện chẳng những khiến người ta dể chú ý mà còn giàu tính truyền kỳ, đó chính là đặc tính hay phương pháp trao truyền của Thiền Tông vượt ra ngoài Giáo tông đã tạo nên thành tích lớn lao cho Thiền Tông.

Về mặt truyền bá hệ thống giáo nghĩa, Phật giáo lấy Phật, Pháp, Tăng làm thành hệ thống truyền pháp, xây dựng đạo tràng, hình thành hoàn cảnh tu tập và đem lý nhập cùng hạnh nhập làm phương pháp tu tập, cho nên chú ý đến danh tướng nương vào kinh điển để giải nghĩa, ngồi yên niệm Phật, nghiên cứu chỉ quán. Thiền Tông phủ nhận lý nhập hạnh nhập, mở ra vô số phương tiện, đem việc chỉ thẳng tâm người, bản tâm không ô nhiễm làm nền tảng, lấy vô tâm hợp đạo, tự ngộ tự chứng làm phương pháp. Khi ấy nghe tiếng sỏi chạm gốc tre, hoặc qua suối đều có thể khai ngộ, thấy hoa đào thấy mặt trời đều có thể minh tâm, nghe tiếng sấm nổ hay nghe tiếng lính nạt đường hay nghe tiếng ếch nhảy vào vũng nước cũng khả dĩ nhập đạo, cho đến sử dụng đánh hét, nhướng mày chớp mắt, giơ phất tử đưa nắm tay, vẽ vòng tròn, tham công án thoại đầu, mê thì còn kẹt nơi phàm phu, ngộ thì thành thánh, đã thần bí lại phương tiện khiến Thiền Tông trở thành “tông phái hấp dẫn người”.

Từ sự phát triển văn hóa Trung Hoa mà luận, cách sinh hoạt khi ra hoằng pháp trái ngược với bối cảnh đất nước thời ấy của tăng lữ Phật giáo, các danh từ Phật học được dùng trong kinh điển vẫn còn noi theo Thiên Trúc (Ấn Độ). Chủ trương “Một ngày không làm, một ngày không ăn” của Thiền Tông đã khiến cho cuộc sống tu sĩ bị thế tục hóa, và việc sử dụng danh từ Phật học phần lớn dùng theo Trung thổ (Trung Hoa), chẳng những giữ lấy cả hai phần thanh nhã và thô tục, mà còn dùng luôn cả những câu thơ, lời sử của các bậc danh gia bên Nho và bên Đạo, khiến cho thiền lý và văn hóa Trung Hoa dung hợp nhau, tự nhiên dễ làm mọi người ưa thích. Căn cứ vào vài điểm trên đây có thể thấy được đặc tính của Thiền Tông; những điều mà Thiền Tông kiến lập, các tông phái khác của Phật giáo không thể sánh kịp.

2. Ảnh hưởng của Thiền Tông đối với Văn nghệ học thuật Trung Quốc :

Thiền Tông đến đời Lục Tổ Huệ Năng mới lớn mạnh. Năm tông hai phái đều là kết quả do sự phát triển của Thiền Tào Khê. Một giọt nước Tào Khê đã hình thành cái thế thấm rộng lan xa không những làm kinh hoàng giới trí thức Phật giáo mà dư ba còn thấm nhuần đến văn nghệ và học thuật của Trung Quốc.

Về mặt học thuật, Thiền Tông ảnh hưởng rất lớn đến lý học đời Tống Minh : Thiền Tông có ngữ lục rồi, nhà Đạo học mới có ngữ lục ; Thiền Tông có công án rồi, nhà Đạo học mới có học án; Thiền Tông tạo dựng nên tông thống rồi, nhà Đạo học mới xây dựng đạo thống. Trong âm thầm nó ảnh hưởng rất nhiều đến Tống Nho, khảo sát những bài luận nào trong học án đời Tống Nguyên đều thấy bàng bạc tư tưởng Thiền Tông cho nên bàn về lý học đời Tống Minh thì không thể không đề cập đến Thiền Tông.

Về mặt nghệ thuật, hình tượng cây chuối trong tuyết của Vương Duy chính là biểu hiện thiền ý “Một phen chết sạch”, nhà hội họa dùng màu đen làm màu sắc chính, màu trắng làm màu sắc phụ, rõ ràng là chịu ảnh hưởng của tông Tào Động. Tông Tào Động dùng màu đen để biểu hiện Bản thể giới, dùng màu trắng tượng trưng cho Hiện tượng giới. Mực chia làm năm màu cũng là căn cứ theo ngũ vị của tông Tào Động mà phân chia, tiến lên để hình thành học phái dùng thiền bàn luận về hội họa.

Về mặt thi ca, thiền nhân dùng thơ ngụ thiền, thi nhân đem thiền vào thơ; thiền gia có ngữ lục, thi nhân có thi thoại; Thiền Tông kiến lập tông thống, thi nhân xây dựng thi phái như Giang Tây Thi Phái, Thiền nhân có thiền cảnh, thi nhân như Tư Không Đồ luận về ý cảnh của thơ, Nghiêm Vũ...vv... tiến bộ hơn là dùng thiền bàn luận về từ, thi từ của thiền nhân càng làm văn học Trung Quốc toát ra nhiều vẻ khác nhau. Vì thế chúng ta có thể thấy được Thiền Tông không chỉ có ảnh hưởng sâu xa về phương diện tôn giáo mà còn có mối quan hệ rộng lớn đến lãnh vực văn nghệ. Nếu không thấu hiểu thiền học thì đối với tinh ngôn diệu nghĩa của văn nghệ đời trước, chúng ta sẽ không có cách gì hiểu rõ sâu sắc. Thế nên mới có việc Phùng Ban sửa chữa sai lầm trong “ Thương Lãng Thi Thoại” ; Quách Thiệu Ngu so sánh và chú thích “Thương Lãng Thi Thoại” (của Nghiêm Vũ dùng thiền để luận thơ), thêm lời chê bai xằng bậy; việc Chu Đông Nhuận tổng thuật thi luận của Tư Không Đồ hết sức nhầm lẫn. Đối với vấn đề thiền vị trong thơ Đường Tống và tông phái thiền gia cùng Giang Tây Thi Phái, tôi cũng có luận đến, để thấy thiền học ảnh hưởng đến một mảng thi học, cũng có thể xem là kết luận về thiền và thơ của sách này.

3. Sự hình thành thơ tụng cổ :

Trong rừng thơ của thi nhân Đường Tống, thơ của thiền gia chiếm một chỗ đứng đáng kể, mặc dù chẳng được xếp chung hàng với các vị : Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Thức, Hoàng Sơn Cốc, nhưng ít ra cũng có giọng điệu riêng. Tùy theo mỗi người mà đánh giá, ngoại trừ các vị có thi tập được lưu truyền ở đời như : Kiểu Nhiên, Tề Kỷ, Quán Hưu, Hàn Sơn ra còn có thơ của các thiền gia khoảng một vạn bài trở lên. Nói đến thơ Đường Tống, hầu như chẳng ai biết có loại tụng cổ này, mặc dù trong các sách vở Thiền Tông đều có ẩn chứa nó. Tuy không ít người biết đến thi kệ của Thần Tú và Huệ Năng, nhưng đó chỉ là thơ do mọi người truyền miệng. Cho dù các thi nhân đương thời suy luận về thơ và thi thoại cũng rất ít người hiểu thấu được nghĩa uẩn súc của nó, còn việc đem thơ ngụ thiền, dung hợp thiền công án với thơ làm thể của thơ tụng cổ thì rất ít người biết đến. Đó chính là điều bút giả soạn sách này đặc biệt quan tâm đến.

Đường Tống là thời đại hoàng kim của thi ca Trung Quốc cũng là thời đại hoàng kim của thiền. Về thơ mà nói, đời Đường ngoài việc triều đình bảo thi nhân dùng thơ để đi thi làm quan đỗ tiến sĩ, vua Đường Thái Tông còn khuyến khích việc dùng thơ để chấn hưng tôn giáo. Các hàng vua chúa vương hầu đối với thi nhân rất là kính trọng và khoan dung, ảnh hưởng lan rộng khiến cho mọi người trong xã hội hầu như hoàn toàn là những người ưa thích thưởng thức thơ. Một bài thơ hay, một câu liễn tốt có thể truyền vang thiên hạ, nổi tiếng khắp hoàn vũ. Đây là bối cảnh thời đại của thiền nhân dùng thơ ngụ thiền. Thiền Tông ở vào thời này tông phong rất hưng thịnh, hình thành cái thế đối kháng giữa Giáo tông va Thiền Tông, nhưng thiền lý thiền cảnh còn có phần không thể nói được, vì biết hễ nói ra là đi con đường vòng quanh; nói mà chẳng nói, khi ấy liền mượn thể thơ tỉ hứng hay bám chặt chủ đề bài thơ chẳng khẳng định cũng chẳng phủ định, còn hay tượng trưng hư hư thực thực, khéo truyền được ý chỉ khúc mắc mà chẳng mở chẳng trói, chẳng rơi vào lời nói, chẳng dính vào lý luận, hiển bày cơ cảnh mà mình muốn biểu đạt. Thần Tú, Huệ Năng chính là người đề xướng thể loại này. Từ khi Thiền Tông thinh hành trở về sau, thi nhân và thiền sư ngồi chung chiếu, mắt thấy cơ cảnh, tai nghe chuyển ngữ, khi ấy mớiđem thiền vào thơ. Thơ với thiền vốn chẳng cùng cành chung nhánh, tợ hồ băng tuyết với than hồng không thể chung một lò. Sau khi được dung hợp, giống như đổ nước và sữa trong một cái bát,rồi tiến thêm một bước để phát triển thành thơ tụng cổ, trở thành một thể khác trong thơ.

Thơ của thiền gia có một loại tụng cổ, đây chính là thiền nhân hoặc lấy ngữ lục, hoặc lấy công án, hoặc lấy niêm cổ, hoặc cử cổ tắc, rồi dùng hình thức thơ để phát minh huyền lý áo nghĩa của bậc tiền nhân, và dùng nó xem xét lại chính mình. Như trong Bích Nham Lục của thiền sư Viên Ngộ đời Tống có nói: “Nói chung, tụng cổ chỉ là lời bàn thiền loanh quanh” nên thơ tụng cổ bao gồm hai phần lớn, một là thiền lý thiền cơ, một là thi pháp thi nghĩa mà công án, ngữ lục chính là đề mục của bài thơ tụng cổ này; do đó từ hai mặt này mà giải thích mới có thể sáng tỏ được thiền và thơ, thông suốt cả hai.Thơ tụng cổ dù bắt nguồn từ các bài kệ trong kinh Phật song chỉ chịu ảnh hưởng của thơ cận thể, phong cách ý vị có nhiều chỗ bất đồng. Thiền nhân dồn sức cho sự sáng tác thơ tụng cổ, cố nhiên phải tìm về người kiến lập Tông Tào Động là Tào Sơn Bổn Tịch – Ông đọc kệ Pháp thân của Phó Đại sĩ liền làm thơ tụng, để xiển dương áo nghĩa. Đệ tử truyền thừa của Lâm Tế là Hòa thượng Chỉ Y dùng thơ tụng cổ để giải thích bốn cảnh giới của Lâm Tế Nghĩa Huyền. Từ đời Tống trở về sau, Phần Dương Thiện Chiêu và Tuyết Đậu Trùng Hiển chuyên tập về thơ tụng cổ; thu thập rất nhiều thơ loại này được tìm thấy trong Tụng Cổ Liên Châu Thông Tập và Tông Giám Pháp Lâm. Sách chuyên môn giải thích loại thơ tụng cổ này thì có: Không Cốc Tập, Đường Tập, Thung Dung Lục, nhưng vì chú ý về Thiền, và đưa ra chỗ thấy của mình nên phần giải thích của họ chẳng những chưa đề cập đến ẩn nghĩa trong thơ tụng cổ mà còn không nói hết được nguyên ý hàm chứa trong thơ. Vì thế trong khi soạn sách này, chủ ý chúng tôi là giới thiệu thơ của các bậc đại sư của năm tông hai phái. Sau khi lựa chọn kỹ hơn 100 bài , phân tích rành rẽ công án tụng cổ và vài mươi công án khó, những mong có tác dụng phần nào đối với việc nêu ra chỗ huyền yếu trong thiền thi thiền học.

4.Địa vị của thơ thiền ở trong thơ ngụ lý:

Việc sáng tác thơ và đặc chất của thơ, phần lớn các nhà thơ , phần lớn các nhà thơ đều ghi tạc vào lòng câu nói: “Thơ nương vào tình cảm mà tưôi đẹp” của Lục Cơ. Từ Nghiêm Vũ trở về sau, càng lấy việc “chẳng dính vào lý luận, chẳng rơi vào lời nói” để làm cảnh giới tột cùng của thơ, Nghiêm Vũ nói :

Luận về thơ, thơ có đề tài khác người chẳng liên quan gì đến sách vở, thơ có thú vị khác người chăng liên quan gì đến lý, nhưng nếu không đọc nhiều sách, nghiên cứu tột lý thì không thể đạt đến chỗ tột cùng của thơ, đây gọi là chẳng dính vào lý luận, chẳng rơi vào lời nói ở trên vậy.

Thương Lãng Thi Thoại

Lời nói của Thương Lãng đã hạ thấp địa vị của thơ nói về Lý, người đời sau nhân nơi đây mà chê ông là bàng môn (kẻ ngoài cửa). Hễ là con người sẽ có hai mặt tình cảm và lý trí, trong các tác phẩm của văn học, tuy lấy việc chê bai tình cảm nầy làm chính, nhưng cũng có thể vượt ra khỏi lý trí, hoặc dính dấp đến lý luận, có điều chỉ là không nên vượt ra ngoài nghị luận, chê bai lý giải, mà nên ngụthành thú (ý vị). Viên Mai trong Tùy Viên Thi Thoại từ Đại nhã đến Tống nhân, đã nêu ra lý ngữ trong việc luận về thơ (Thi Thoại q.7), có thể thấy trong thơ đã có phong cách này, chỉ có điều là thơ nói về lý thì lý ắt cần phải hợp với lòng người, hợp với nghệ thuật biểu hiện của thơ,thì lý ngữ mới không thể bị chê bai. Ngô Kiều nói:

Bạn của ta là Hạ Hoàng Công bảo: Nghiêm Thương lãng nói rằng: “Thơ có ý vị riêng, chẳng liên quan đến lý, nhưng thật chưa từng chướng ngại chỗ vi diệu của thơ. Như bài Thung Lãng Hành của Nguyên Thứ Sơn, bài Du Tử Ngâm của Mạnh Đông Giao, chính được Lục Kinh cổ súy, theo lẽ đâu thể phế bỏ được? Chỗ vô lý mà vi diệu của thơ như : Sớm biết thủy triều đưa tin tức. Gả con cho chàng thủy thủ kia là điều vô lý đến kỳ lạ, nhưng rõ ràng là có ý vị.

Vi Lô Thi Thoại q. thượng.

Trong tác phẩm của Nguyên Kết còn dùng lý ngữ, Du Tử Ngâm thì lý rất hợp lòng người,”Việc gả con gái cho chàng thủy thủ” thì chẳng phải trực ngôn nói lý. Cái gọi là” Rõ ràng là có ý vị” là nói đến lý hay đẹp nhất trong thơ,, bảo rằng thơ hay mượn vật ngụ lý, ngụ lý thành thú, dùng phương pháp biểu hiện của tỷ hứng làm mất đi dấu vết của nói , khi ấy ngâm thơ sẽ có vị, vịnh thơ sẽ cảm động người. Hơn nữa, có thể khiến người được ý ở ngoài lời, tìm thơ ở trong câu, mà lý thú dạt dào, Hồ Ứng Lân (Thi tẩu. Nội thiên hạ. Tuyệt cú) nói:

Ngũ ngôn tứ tuyệt của Lý Thái bạch tất nhiên là khẩu ngữ của bậc thiên tiên. Hữu thừa thì lại đi vào Thiền tông. Như: “ Nhân nhàn quế hoa lạc, dạ tĩnh xuân sơn không. Nguyệt xuất kinh sơn điểu, thời minh xuân giản trung. Mộc mạc phù dung hoa, sơn trung phát hồng ngạc. Giản hộ tịch vô nhân, phân phân khai thả lạc”.[ Người nhàn hoa quế rụng, Đêm tĩnh núi quạnh hiu, Trăng mọc chim rừng tĩnh, Khe xuân thỉnh thoảng kêu. Ngọn cây hoa Phù Dung. Giữa núi nẩy cuống đỏ, Quạnh quẽ cảnh bên khe. Bời bời rụng và nở }

Đọc hai bài thơ này khiến cho thân thế đều quên, muôn niệm đều lặng, đâu ngờ là trong thanh luật có lời nói vi diệu ấy”.

Trước tiên chúng ta hãy xét xem hai bài thơ Điểu Minh Giản va Tân Di Ổ của Vương Duy cùng với kinh Phật và sách thiền, mới biết vì sao lại nói: “ Đâu ngờ là trong thanh luật có lời vi diệu ấy”. ( Để thưởng thức hai bài này xin xem chương Thiền vị trong thơ Đường Tống. Có thể thấy trong thơ nói lý, tiến thêm một bước còn có đạo nữa. Một loại ngụ đạo thành ý vị, được người xưa cùng xem cùng chấp nhận, thơ của Vương Duy đi đến chỗ vượt bậc cũng ở chỗ nầy. Chỉ có điều là Vương Duy về già quy hướng Thiền Tông, tuy có khả năng thể ngộ đạo lý, lãnh hội vô dư, đương nhiên còn kém xa Tổ sư thiền, cho nên thơ tụng cổ của Tổ sư thiền phải là một loại ngụ đạo thành ý vị, và nói vềtrong thơ. Cái hay đẹp này quả thật tuyêt vời “ chẳng rơi vào lời nói ” phủ định cách nói “ chẳng dính vào lý luận” của Thương Lãng nói về thơ.

Thơ tụng cổ là những tác phẩm của thiền nhân đắc đạo làm ra để bộc bạch nỗi lòng, mục đích là mượn thơ ngụ thiền, nêu bày tông chỉ để dạy thiền nhân, là một trong những thủ đoạn “lập bày phương tiện để dẫn dụ người”. Điểm đáng quý của tụng cổ chính là không đi theo con đường của Phật kệ, lời nói không văn vẻ để chỉ thẳng chơn tâm. Trái lại có thể không ngại dùng lời thêu dệt, ngụ thiền thành ý vị, có thể sánh vai cùng với Vương Duy, Bạch Cư Dị, là chỗ quý báu của thơ, bài bài không có văn chương sáo rỗng, chỉ ca ngợi đạo Thiền, đây là nét đặc sắc của nó . Nhưng cách cổ nhân đã xa, Thiền tông đang suy, Thiền học chìm lắng nên tôi đem công án trong thơ, những gì liên quan đến Tổ sư thiền sẽ căn cứ theo pháp hệ Thiền Tông để làm ra bảng phụ lục ở cuối sách này giúp độc giả tiện kiểm tra khi xem thơ.

Đỗ Tùng Bách ghi tại Tri Chỉ Trai,Đài Bắc.

TỰA IN LẦN THỨ HAI

Bắt đầu vào ngày 15 tháng 8 năm 1979, anh Lâm Kỳ Văn là chủ biên phụ san của báo Tân Sanh mời tôi viết về thiền và thơ. Bởi vì bảo tôi cầm bút nên trong khi tôi viết, anh đã yêu cầu tôi trưng dẫn sách vở, lại cần phải suy nghĩ tìm tòi thông suốt tập trung vào lúc làm cũng như lúc nghỉ ngơi. Sau đó, anh Dương Chấn Di chủ trì việc sửa văn, còn tôi xem lại bản thảo,, gần hai năm được 35 thiên, biên soạn thành tập, giao cho anh Hoằng Đạo xuất bản. Khi ấy Giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn Sự nghiệp Văn hóa Kim Lân đã sửa văn từ lủng củng, cắt bớt hoặc thêm ở lời mở đầu rồi xin thay mặt tôi khắc bản ấn hành, nhưng vì tôi đã hợp đồng với anh Dương Chấn Di nên mặc dù rất cảm kích trước tấm lòng của ông Giám đốc, tôi cũng không thể giao bản thảo cho ông ta được. Đến nay bản do anh Di in sắp hết và công ty Kim Lân vẫn còn giữ ước nguyện ban đầu là muốn in lại quyển “Thiền và Thơ”. Tôi rất cảm động về nhiệt tâm của công ty, nên ngoài việc đem bản gốc để cho in lại, tôi còn đem phần “Thiền và Thơ” viết sau cùng, những điều mà mình ghi băng lại các bài giảng rồi cùng ấn hành, nên mới có quyển sách quý vị đang cầm trên tay. Nhân duyên về văn tự này, thiết nghĩ đáng được ghi lại.

Thơ và thiền vốn khác nhau rất xa, một bên thuộc về văn tự, một bên thuộc về tôn giáo, trên căn bản không dính dáng gì với nhau, nhưng sau khi trải qua quá trình hòa hợp thì có thể trộn lẫn như nước với sữa, rạng rỡ lạ thường. Dù cho thiền học có chìm lắng, tông phong không hưng thịnh,nhưng những bài thơ lời đẹp nghĩa hay như thế, giống như viên ngọc quý cất trong tráp, chất ngọc khó hư hoại. Trong khi hòa hợp thơ với thiền, tôi có thêm phần giải thích, tuy không quá vài mươi tắc công án, hơn trăm bài thơ thiền, chỉ trình bày toát yếu mà đã dùng hết tâm lực. Chỉ có đều là lãnh hội chưa sâu, chỗ biểu hiện còn thiếu sót ắt khó tránh khỏi, dự định sẽ đính chính lại nhưng vì việc đời bận rộn, nên việc làm chưa được như ý.

Sách này trong sáu chương trước có liên quan đến các luận văn nghiên cứu thiền học cùng với các bài diễn giảng được ghi chép lại, phần lớn có dính dấp đến thơ. Bởi vì từ khi thơ và thiền hợp nhau, sau đó là “Thơ là chiếc áo gấm thêu hoa của thiền khách”, thơ đã trở thành công cụ biểu hiện thường dùng của Thiền Tông, muốn lìa khỏi thơ mà nói thiền là điều không thế được. Những điều bàn luận trong sách, tự cho xiển phát thiền học thiền lý là đa số; có khá nhiều chỗ chứng minh rằng thơ và thiền hỗ tương. Nhưng thiền lấy sự chứng ngộ làm chính; cho dù lời nói có đúng đắn thì rốt cuộc chẳng phải cứu cánh, đều là rơi vào nghĩa thứ hai, cho nên nói: “Ở trên ngọn Cao phong chẳng cho thương lượng”, chính bậc tiên hiền là Trương Lỗi cũng nói :

Chư thánh truyền tâm chẳng nhờ văn tự, từ xưa đến nay Phật Tổ giáo hóa gầy dựng, đều lập môn đình. Đại khái lời nói là để thuyết minh đạo lý, nếu chấp vào đó là đại bệnh, ngôn ngữ là thanh pháp nếu như thấu được mới có ít phần tương ưng”.

Khai Sơn Tâp

Mong rằng những lời nói chấp tướng có thể làm sáng được đại sự của thiền nhân như ngón tay chỉ mặt trăng, có công dẫn đường, giống như cái nơm bắt cá. Nơi con đường hướng thượng không thể nói mà thêm lời nói thì chẳng tránh khỏi

“Nói được cũng ăn 30 gậy, nói không được cũng ăn 30 gậy” có phần ăn gậy nếu là “ Ở ngọn núi thứ hai đều cho riêng hội”; bút viết miệng nói là để thuyết minh đạo lý, nếu như thấu được pháp thân thì cũng có thể xem là nhờ ngón tay thấy mặt trăng, nhờ nơm mà được cá, đạt hiệu quả là đoạn trừ vọng tưởng tham cứu đến chỗ huyền diệu. Dù không thể nhân đó “ riêng chiếm ngọn núi Đại Hùng”, nhưng cũng có thể thấu suốt sự lý, liễu ngộ trần tục, cũng như có thể sáng thiền rõ thơ, biết chỗ kỳ diệu dẫn thiền vào thơ của thi nhân Đường Tống, am hiểu thi ca, ham thích chỗ cao siêu của cơ cảnh vì được sự giúp đỡ của “ Thiền như là con dao gọt ngọc của nhà thơ”. Ý nghĩ cỏn con này sự thực là như thế, nhưng vì nguyện to mà sức lại yếu nên việc làm chưa được như ý muốn !

“Gió đưa hoa đẹp rực rỡ rơi đầy”, thiền học như gió nhẹ gió mạnh thổi tạt vào vườn thơ. Với ngọn bút khéo léo và trí thông minh nên thi nhân đã dẫn thiền vào thơ, như bông hoa nhờ gió mà thụ phấn, như gió lay cành làm rụng hoa, gây biết bao là tan tác, biết bao là rực rỡ, lấp lánh màu sắc vi diệu của thiền. Quyển sách này đầy dẫy văn chương, mỗi lời mỗi câu vừa đẹp đẽ vừa vương vãi, phần lớn là những bài thơ hay tuyệt vời đầy tính trí huệ của thiền sư và thi gia. Đọc nó trong khoảnh khắc như có dòng nước mát rưới vào lòng, còn giúp ta hiểu được tấm lòng cao nhã của người trước, thật là thích thú ! Còn như văn có chỗ dư thừa, lý có thiếu sót, kính mong các bậc cao minh vui lòng chỉ dạy cho.

Đỗ Tùng Bách viết tại Tri Chỉ Trai, Đài Bắc.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét