
LỜI NÓI ĐẦU
Thiền tạng chỉ là một bộ phận trong Đại tạng kinh, bao gồm một số kinh luận và ngữ lục, song số lượng tác phẩm Thiền học, nhất là hệ Thiền phát triển do Phật cùng chư vị Tổ sư trước tác để lại không hề nhỏ. Chính vì thế, khi bước chân vào thư viện Phật giáo, một thiền sinh nhập môn Hán tạng sẽ cảm thấy lúng túng, khó khăn để tìm một quyển sách Thiền bằng chữ Hán thích hợp với trình độ của mình.
Đối với những người chuyên tâm tu trì hoặc những thiền sinh đang hạ thủ công phu, có thể nói là qua việc tụng đọc, hành trì thì chỉ một hoặc vài quyển kinh, luận hay lục cũng đã quá đủ để làm tư lương trên lộ trình tu tập hay cũng đủ mang lại an vui trong cuộc sống.
Thế nhưng, đứng từ góc độ những người muốn tìm hiểu, học hỏi, hoặc với những ai bước đầu làm quen với các tác phẩm Thiền tông, thì một sự hiểu biết khái quát và cơ bản về Thiền tạng là rất cần thiết để giúp phát khởi lòng tin hoặc phát sinh niềm hứng thú định hướng cho việc tu tập. Đặc biệt với những vị đang nhận lãnh trách nhiệm xiển dương giáo pháp Thiền tông thì việc nghiên cứu học hỏi về Thiền tạng lại càng quan trọng hơn nữa.
Xuất phát từ những suy nghĩ đó, chúng tôi không nệ chỗ hiểu biết kém cõi, cố gắng cho ra đời tập sách Tra nhanh tác phẩm Thiền tông nhằm đáp ứng nhu cầu ấy. Rất mong được sự đồng tình và đóng góp chỉnh sửa cho tập sách này ngày càng phong phú và hoàn bị hơn.
Thiền viện Chơn Không, mùa An cư năm Kỷ Sửu
Thông Thiền
kính ghi.
A-B
AN BAN THỦ Ý KINH 安 般 守 意 經
Kinh căn bản của Thiền tông, do An Thế Cao dịch từ Phạn ra Hán, Trần Tuệ chú giải, thiền tăng Khương Tăng Hội (?-280) bổ túc và viết bài tựa. Đây là một trong những bộ kinh Phật được chú giải đầu tiên ở Giao Chỉ trong thời Phật giáo mới du nhập vào Việt Nam. Nội dung dạy cách tọa thiền đếm hơi thở, quán niệm hơi thở để giữ tâm ý không bị tán loạn.
BÁC SƠN ĐẠI NGHĨ HÒA THƯỢNG QUẢNG LỤC 博 山 大 艤 和 尚 廣 錄
X. Vô Dị Nguyên Lai Thiền sư quảng lục.
BÁCH TRƯỢNG HOÀI HẢI THIỀN SƯ NGỮ LỤC 百 丈 懷 海 禪 師 語 錄
Còn gọi: Hồng Châu Bách Trượng Sơn Đại Trí Thiền sư ngữ lục. Ngữ lục, 1 quyển, do Bách Trượng Hoài Hải soạn vào đời Đường, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 118, trang 161.
Nội dung gồm có những cơ duyên ngữ cú của Bách Trượng Hoài Hải như: »Linh quang độc diệu… tức như như Phật«. Từ những ngữ cú này chúng ta có thể nhận ra đặc điểm thiền học của Bách Trượng Hoài Hải, đó là chủ trương tâm tính chúng sinh xưa nay thành tựu viên mãn, chỉ cần chẳng bị vọng tưởng trói buộc liền chẳng khác với chư Phật.
BẠCH VÂN THỦ ĐOAN THIỀN SƯ QUẢNG LỤC 白 雲 守 端 禪 師 廣 錄
Còn gọi: Bạch Vân Đoan Hòa thượng ngữ lục. Ngữ lục, 4 quyển, do Bạch Vân Thủ Đoan soạn vào đời Tống, nhóm ông Xử Ngưng biên tập, được xếp vào Tục Tạng kinh, tập 120, trang 400, Thiền tông toàn thư tập 40 trang 41. Nội dung bao gồm các ngữ lục do đệ tử của Thủ Đoan biên tập tại 6 nơi: Thiền viện Viên Thông Sùng Thắng ở Giang Châu; Thiền viện Thừa Thiên; Thiền viện Chứng Đạo, núi Pháp Hoa ở Thư Châu; Thiền viện Càn Minh ở núi Long Môn; Thiền viện Hưng Hóa; Thiền viện Hải Hội ở núi Bạch Vân; cho đến các kệ tụng, 100 tắc tụng cổ và bài tựa Tổ Đường Cương Kỷ.
BÀNG CƯ SĨ NGỮ LỤC 龐 居 士 語 錄
Ngữ lục 3 quyển, do Bàng Uẩn soạn vào đời Đường, Vu Địch biên tập, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 120, trang 55, Thiền tông toàn thư tập 39 trang 231..
Quyển 1: Cơ duyên đối thoại giữa Bàng Uẩn với các vị Mã Tổ, Thạch Đầu Hy Thiên, Đan Hà Thiên Nhiên, Phổ Tế, Tùng Sơn, Đại Mai; hiển thị cơ dụng Không Không vô tướng, vô vi, vô ngã của ông.
Quyển 2, 3: Thơ ngũ ngôn, thất ngôn và các lời nói vụn vặt, đáng làm tấm gương cho người học tu tập.
BẢO CẢNH TAM MUỘI BẢN NGHĨA 寶 鏡 三 昧 本 義
Sách, 1 quyển, do Hành Sách soạn vào đời Thanh, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 111, trang 267, Thiền tông toàn thư tập 94 trang 335. Sư dùng 6 thứ sách tranh: Bảo Cảnh Tam muội, Thiên Chính hồi hỗ, Tam điệp phân quái, Ngũ biến thành vị, Nhị dụ hiển pháp, Lục hào nhiếp nghĩa để nêu lên tinh nghĩa Trùng ly lục hào, Chính thiên hồi hỗ và giải thích cặn kẽ thuyết ngũ vị.
BẢO CẢNH TAM MUỘI CA 寶 鏡 三 昧 歌
Còn gọi: Động Sơn Lương Giới Thiền sư Bảo Cảnh Tam Muội, Bảo Cảnh Tam Muội. Sách, 1 thiên, do Động Sơn Lương Giới soạn vào đời Đường. Thiên này ghi lại huyền chỉ chính thiên hồi hỗ của tông Tào Động bằng thể ca ngâm. Thuyết Chính thiên hồi hỗ thật ra bắt nguồn từ Tham Đồng Khế do Thạch Đầu Hy Thiên soạn. Sau đó Thạch Đầu truyền cho Dược Sơn, Dược Sơn truyền cho Vân Nham, Vân Nham truyền cho Động Sơn. Đến đời Động Sơn mới tập đại thành thuyết ngũ vị, nên thiên này và Tham Đồng Khế đồng là sách căn bản của tông Tào Động, do đó rất được xem trọng. Toàn thiên làm theo thể tứ ngôn, gồm 94 câu, 376 chữ, được xếp vào Quân Châu Động Sơn Ngộ Bản Thiền sư ngữ lục, và Nhân Thiên Nhãn Mục q. 3.
Các sách chú thích có:
Bảo Cảnh Tam Muội Huyền Nghĩa.
Bảo Cảnh Tam Muội Bản Nghĩa.
Bảo Cảnh Tam Muội Nguyên Tông Biện Mậu.
BẢO CẢNH TAM MUỘI HUYỀN NGHĨA 寶 鏡 三 昧 玄 義
Sách, 1 quyển, do Vân Ngoại Vân Tụ soạn vào đời Tống, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 111, trang 222.
Vân Tụ đem Bảo Cảnh Tam Muội Ca chú thích tỉ mỉ để giải thích nguyên nghĩa vi diệu của nó. Sách này được phụ lục ở quyển hạ của Trùng Biên Tào Động Ngũ Vị Hiển Quyết.
BẢO CẢNH TAM MUỘI NGUYÊN TÔNG BIỆN MẬU 寶 鏡 三 昧 元 宗 辨 謬
Sách, 1 quyển, do Vân Tông Tịnh Nột soạn vào đời Thanh, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 111, trang 279, Thiền tông toàn thư tập 94 trang 349.
Tịnh Nột trình bày và phân tích bản nghĩa Bảo Cảnh Tam-muội, giải thích Trùng ly lục hào, Chính thiên hồi hỗ của Vân Nham. Trình bày và giải thích về việc lấy: Chính thiên của Động Sơn Lương Giới làm căn bản để lập Ngũ vị Công huân, Công huân của Tào Sơn Bản Tịch làm căn bản để lập Ngũ vị quân thần, Chính thiên Công huân của Thạch Sương làm căn bản để lập Ngũ vị Vương tử, mục đích nhằm hiển bày ý chỉ của »Bảo Cảnh Tam Muội Ca«.
BẢO GIÁC TỔ TÂM THIỀN SƯ NGỮ LỤC 寶 覺 祖 心 禪 師 語 錄
Còn gọi: Hoàng Long Hối Đường Tâm Hòa thượng ngữ lục, Hoàng Long Am Chủ ngữ lục, Hối Đường Hòa thượng ngữ lục. Ngữ lục, 1 quyển do Hối Đường Tổ Tâm soạn vào đời Tống, Tử Hòa ký lục, Trọng Giới trùng biên. Nội dung gồm có: Những lời thượng đường của Tổ Tâm, Hỏi đáp thay trong thất, Cử cổ tắc trong thất, Kệ tụng. Sách này được xuất bản vào niên hiệu Nguyên Phong thứ 1 (1078) đời Tống và được xếp vào Hoàng Long Tứ Gia lục, q. 2, Thiền tông toàn thư tập 41 trang 747.
BẢO HOA SƠN CHÍ 寶 華 山 志
Chí, 15 quyển, do Lưu Danh Phương soạn vào đời Thanh. Núi Bảo Hoa nằm ở huyện Cú Dung, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Tương truyền nơi đây là đạo tràng của Thiền sư Bảo Chí, do vì lâu đời nên bị hoang phế. Mãi đến niên hiệu Vạn Lịch (1573-1619) đời Minh, thiền sư Diệu Phong xây điện bằng đồng đặt tên là »Thánh Hóa Long Xương Tự«. Khoảng niên hiệu Khang Hy (1662-1722) đời Thanh, được sắc tứ là »Huệ Cư Tự«, do đây mà nổi tiếng ở đời. Khi ấy có Lưu Danh Phương soạn sơn chí, chia làm 24 loại: Sơn đồ, hình thắng, tinh dã, sơn thủy, kiến trí, cổ tích, linh dị, cao tăng, luật sư, bi minh, bi ký, tháp minh, chiếu sắc, tấu sớ, công di, ký, phú, tự, truyện, tán, khảo, thư, khải, thi. Tuy sách này có tên là Sơn chí nhưng kỳ thực vì Huệ Cư Tự mà làm, có khắc bản vào đời Thanh.
BẢO LÂM TRUYỆN 寶 林 傳
Còn gọi: Đại Đường Thiều Châu Song Phong Sơn Tào Khê Bảo Lâm truyện, Tào Khê Bảo Lâm truyện, Song Phong Sơn Tào Khê Bảo Lâm truyện. Truyện, 10 quyển, do Trí Cự soạn vào niên hiệu Trinh Nguyên thứ 17 (801) đời Đường, được xếp vào Tống Tạng Di Trân.
Chùa Bảo Lâm ở Tào Khê, Thiều Châu là đạo tràng của Tổ Huệ Năng tuyên dương Thiền pháp nên lấy đây làm tên sách để làm sáng tỏ pháp thống của Ngài. Nội dung gồm có những tác phẩm về lịch sử Thiền tông như: Đàn Kinh, Ngũ Minh tập, Tục Pháp truyện, Quang Xán lục, Lịch Đại Pháp Bảo ký, chủ trương có sự truyền thừa của 28 vị Tổ. Sau đó còn có: Tổ Đường tập, Cảnh Đức Truyền Đăng lục, nhằm xác định chỗ truyền của thuyết 28 vị Tổ. Trí Cự viết sách này nhằm mục đích luận giải rõ ràng về sự quan hệ giữa Tôn giả Sư Tử và Bồ-đề Đạt-ma. Thế nên, khi sách này ra đời thì bị các thiền sư đời sau viết sách chê trách.
BÁT-NHÃ TRỰC GIẢI 般 若 直 解
Kinh sớ, 1 quyển, do Thanh Đàm Minh Chính (Thiền Sư Việt Nam) giải, Thanh Thành sao, Thanh Đức chép. Nội dung bao gồm:
Lời tựa khắc kinh của Hội Phật Giáo Bắc Kỳ năm 1943.
Lời tựa dẫn của Tỳ kheo Thanh Hanh vào năm thứ 9 (1933) Hoàng triều Bảo Đại.
Tựa của ngài Minh Chính.
Phần trực giải.
Phần Kệ tụng gồm: Mười tắc cương lĩnh; bốn phần »Tín, giải, hạnh, chứng« để chỉ dạy phương pháp tu trì chính pháp; hai mươi thiên hậu bạt để xiển dương công năng chí cực đốn liễu; bốn câu kệ Bát-nhã của Cổ đức; Duy tâm thức quán tứ trí luận của Bồ Tát Mã Minh; kệ Sáu căn bảy đại của Tổ Trúc Lâm Điều Ngự để diễn rộng tông chỉ của Tâm Kinh.
Phần phụ lục: Huệ Năng Đệ lục tổ Lạc Đạo Ca.
Sách này được khắc bản vào niên hiệu Thành Thái thứ 15 (1903).
BẮC GIẢN CƯ GIẢN THIỀN SƯ NGỮ LỤC 北 澗 居 簡 禪 師 語 錄
Còn gọi: Bắc Giản Hòa thượng ngữ lục, Bắc Giản ngữ lục. Ngữ lục, 1 quyển, do Bắc Giản Cư Giản soạn vào đời Tống, Vật Sơ Đại Quan biên tập, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 121, trang 128, Thiền tông toàn thư tập 46 trang 1. Nội dung bao gồm ngữ lục của Cư Giản tại viện Bát-nhã ở Đài Châu, chùa Thiết Quan Âm ở Hồ Châu, chùa Viên Giác ở An Kiết Châu, chùa Huệ Nhật ở phủ Bình Giang, và các phần Tiểu tham, Bỉnh phất, Cáo hương phổ thuyết, Tụng cổ, Kệ tụng, Tiểu Phật sự. Có phụ lục lời tựa của các vị Thạch Khê Tâm Nguyệt…
BÍCH NHAM LỤC 碧 巖 錄
Gọi đủ: Phật Quả Viên Ngộ Thiền sư Bích Nham lục, còn gọi: Bích Nham tập. Lục, 10 quyển, do Tuyết Đậu tụng cổ, Viên Ngộ Khắc Cần bình xướng vào đời Tống, Phổ Chiếu biên tập, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 117, trang 251, Thiền tông toàn thư tập 89 trang 1.
Từ trong ngữ lục Thiền tông, Tuyết Đậu Trọng Hiển tuyển ra 100 tắc công án (lấy tông Vân Môn làm trọng điểm), sau mỗi công án Ngài dùng thơ để bình thuyết (Tụng), nhằm chỉ dạy cho người học thiền. Về sau gọi sách này là »Tụng Cổ Bách Tắc« (100 tắc Tụng cổ). Khoảng đầu niên hiệu Chính Hòa (1111) đời Tống, Viên Ngộ Khắc Cần trụ trì viện Linh Tuyền ở Giáp Sơn, thể theo lời yêu cầu của Trương Thương Anh, thuyết giảng về 100 tắc tụng cổ, đệ tử của sư là Phổ Chiếu ghi chép, biên tập lại thành sách. Vì trong thiền lâm gọi Giáp Sơn là Bích Nham, nhân đó gọi sách này là Bích Nham lục.
Bích Nham lục lấy »Tụng Cổ Bách Tắc« của Thiền sư Tuyết Đậu làm căn bản, Thiền sư Viên Ngộ giảng một đoạn »Thùy thị« trước mỗi tắc công án, trong mỗi tắc công án, tụng cổ đều có hạ »trước ngữ« và sau đó lại »bình xướng« để dẫn đường mở lối cho người học đạo. Quyển lục này sau khi được xuất bản, dư luận chốn Thiền lâm khen chê chẳng đồng. Nhóm khen cho rằng sách này có giá trị rất cao, bảo là »Tông môn đệ nhất thư« (Quyển sách hạng nhất trong Thiền tông), và sau đó không ít tác phẩm mô phỏng sách này liên tiếp ra đời. Nhóm chê bảo rằng sách này thuộc loại trau chuốt văn chương làm xiếc câu chữ, trái với tông chỉ »trực chỉ nhân tâm« của Thiền tông, khiến người học thiền chạy theo hình thức mà không thật ngộ, cho nên Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo vì cứu tệ nạn này mà cương quyết thiêu hủy kiệt tác của Thầy mình và cấm chỉ lưu truyền.
Bích Nham lục sau khi bị thiêu hủy hơn 100 năm, đến niên hiệu Đại Đức thứ 1 (1297) đời Nguyên Thành Tông, cư sĩ Trương Minh Viễn ở Hàng Châu sưu tập các bản còn sót lại ở các nơi, giảo chính rồi cho tái bản. Quyển lục này là mẫu mực của Tông môn, là kim chỉ nam đi biển, là sao Bắc Đẩu trong đêm tối.
BIỆN NGỤY LỤC 辨 僞 錄
Còn gọi: Chí Nguyên Biện Ngụy lục. Lục, 5 quyển, do Tường Mại soạn vào đời Nguyên, được xếp vào Đại Chính Tạng tập 52, trang 751. Vào niên hiệu Chí Nguyên thứ 28 (1291) đời Nguyên, Tường Mại phụng sắc soạn sách này để bài xích ngụy thuyết của Đạo giáo. Bởi vì các vị của phái Toàn Chân là Khưu Xử Cơ, Lý Chí Thường cưỡng chiếm 482 ngôi tự viện, phá hủy tượng Phật, bảo tháp, xây dựng lại làm Đạo quán, truyền bá »Lão Tử Hóa Hồ Kinh« và »Lão Tử Bát Thập Nhất Hóa Đồ«, đưa đến chỗ tranh luận kịch liệt giữa 2 giáo: Phật và Đạo. Nửa phần trước của Biện Ngụy lục gồm 14 thiên bài xích Đạo giáo và sách vở của họ. Nửa phần sau kể lại ngọn nguồn việc triều đình nhà Nguyên cho 2 giáo Phật và Đạo biện luận chân ngụy. Phụ lục các văn hiến có liên quan.
BỈNH PHẤT NGỮ LỤC 秉 拂 語 錄
Gọi đủ: Cổ Sơn Vi Lâm Thiền sư Cư Thủ Tọa Liêu ngữ lục. Còn gọi: Vi Lâm Thiền sư Bỉnh Phất ngữ lục, Vi Lâm Đạo Bái Thiền sư Bỉnh Phất ngữ lục. Ngữ lục, 2 quyển, do Vi Lâm Đạo Bái soạn vào đời Thanh, Thái Tịnh ghi chép, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 125. Nội dung gồm có: Pháp ngữ lúc bỉnh phất, trà thoại, cử cổ, Phật sự, kệ, tụng, tán của thiền sư Đại Bái khi ngài ở Cổ Sơn, Phúc Châu.
Quyển cuối là phần phụ lục »Hộc Lâm Ai Khổn« 1 quyển, là bài văn tưởng niệm về Thầy của sư là Vĩnh Giác Nguyên Hiền. Nội dung bao gồm: Tiên Hòa thượng Quy Chân Ký, lời dạy sau cùng, Tế văn, Tháp chí, Khởi Khám Cáo văn, Phong tháp cáo văn, cho đến lời bạt của vị tăng Nhật Bản là Liên Sơn Văn Dị.
BỒ ĐỀ ĐẠT MA NAM TÔNG ĐỊNH THỊ PHI LUẬN 菩 提 達 磨 南 宗 定 是 非 論
Luận nghị, không chia quyển, do Thần Hội thuật vào đời Đường, Độc Cô Bái ghi và viết lời tựa. Đây là quyển còn sót lại (mất nửa phần sau) của bản chép tay ở Đôn Hoàng, ghi chép lại việc biện luận chính tà, thị phi giữa Thần Hội (đại diện cho Nam Tông) và Sùng Viễn (đại diện cho Bắc Tông) tại đại hội Vô Già tổ chức ở chùa Đại Vân, Hoạt Đài, Hà Nam. Toàn thiên sử dụng hình thức vấn đáp. Bài tựa của Độc Cô Bái cũng dùng hình thức vấn đáp, nội dung chính của nó cũng là ghi chép lại những lời nói của Thần Hội.
Thiên giữa chỉ ra: »Đạt-ma muốn khai Tri kiến Phật cho là phải thầm khế hợp nên truyền một tấm ca-sa, cho là pháp tín nên trao cho Huệ Khả, Huệ Khả truyền lại Tăng Xán, Tăng Xán truyền lại Đạo Tín, Đạo Tín truyền lại Hoằng Nhẫn, Hoằng Nhẫn truyền lại Huệ Năng, 6 đời Tổ sư truyền nhau, liên tục không dứt. Thần Hội đã dựng lên ngọn cờ tiên tiến, chứng cứ xác đáng về thế phổ chính tông của 6 đời Tổ sư Thiền tông Trung Hoa. Việc này đối với những vị tự xưng Bắc Tông là Chính thống chính là một đòn đả kích trí mạng, và có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của Thiền tông đời sau.
Sách này được xếp vào »Thần Hội Hòa thượng di tập« do Hồ Thích hiệu đính bản Đôn Hoàng (được chép tay vào đời Đường).
BỔ THIỀN LÂM TĂNG BẢO TRUYỆN 補 禪 林 僧 寶 傳
Truyện ký, 1 quyển, do Khánh Lão soạn vào đời Tống. Sách này viết thêm truyện ký của 3 người, sau truyện có tán, thể lệ giống như »Thiền Lâm Tăng Bảo truyện«, văn chương trang nhã, được ra mắt vào đời Tống và phụ vào sau bộ Thiền Lâm Tăng Bảo truyện, được xếp vào Thiền tông toàn thư tập 4 trang 547.
BÙI HƯU THẬP DI VẤN 裴 休 拾 遺 問
X. Thiền Môn Sư Tư Thừa Tập Đồ.
BÚT KÝ 筆 記
Thể loại văn xuôi tự sự, ghi lại con người và sự việc trong Thiền lâm. Thí dụ: Tông Môn Võ Khố của Đại Huệ Tông Cảo, Lâm Gian Lục của Huệ Hồng soạn, La Hồ Dã lục của Hiểu Oánh soạn, Vân Ngọa Kỷ đàm do Hiểu Oánh soạn, Tùng Lâm Thịnh Sự do Đạo Dung soạn, Nhân Thiên Bảo Giám do Đàm Tú soạn, Sơn Am Tạp lục do Vô Uấn soạn đều thuộc thể loại này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét