Thứ Tư, 3 tháng 3, 2010

PHẬT GIÁO TAM TỰ KINH

Photobucket

LỜI NÓI ĐẦU

“ Phật Giáo Tam Tự Kinh”là quyển sách dạy vỡ lòng do thiền sư Xuy Vạn Quảng Chân soạn vào cuối đời Minh, phỏng theo sách Tam Tự Kinh của Tống Ứng Tinh soạn từ đời Tống .

Quyển của Ứng Tinh nhằm cung cấp những kiến thức bách khoa về tự nhiên và xã hội, những tấm gương cần cù hiếu học và thành đạt ở thế gian. Trong khi đó, quyển “ Phật Giáo Tam Tự Kinh”của Xuy Vạn lão nhân là một quyển sách giáo khoa Phật học, đặt biệt dành cho Tăng Ni và những ai muốn nghiên cứu Phật giáo.

Thật vậy mặc dù chỉ có 732 câu (mỗi câu 3 chữ ) tổng cộng là 2.196 chữ mà có chứa đựng một nội dung phong phú bao gồm những bài học về Pháp giới, lịch sử đức Phật Thích-ca, Kết tập kinh điển, Phật giáo du nhập Trung Quốc, Mười tông phái, Phép sám hối, Các pháp, Gương cổ đức .v.v…

Chỉ hơn 2.000 chữ mà tác giả nêu ra được trọng tâm giáo lý Đạo Phật. Ví như trong phạm vi 64 câu, đã khái quát cả cuộc đời đức Phật Thích-ca từ đản sanh cho đến Niết-bàn một cách tài tình.Trong 308 câu cho ta một kiến thức khá đầy đủ về Mười tông phái Phật giáo. Đặc biệt ta sẽ bắt gặp trong sách nầy những danh số Phật học như : Tam thân, tứ trí, tứ đế, tứ đức niết-bàn , tứ vô lượng tâm, ngũ uẩn, ngũ nhãn, lục căn, lục trần, lục thông, lục độ, thập giới, thập nhị xứ, thập bát giới, thập nhị nhân duyên, khí thế gian….với lời giải thích gọn gàng dễ hiểu.

Kế đó là phần khuyến học mang tính cách hướng dẫn giới phật tử biết cách học tập tu hành theo thứ lớp để thể nhập “ Pháp giới tánh’ như phần mở đầu sách đã nêu.

Gần cuối sách là những tấm gương siêng năng tu tập, hiếu hạnh, đạo đức thanh cao, thiền cơ bén nhạy của chư cổ đức để Tăng Ni chúng ta noi theo ngõ hầu thành tựu sự nghiệp trí huệ của đời mình. Đây là nội dung của quyển “ Phật Giáo Tam Tự Kinh”.

Sau đó chúng tôi thêm phần “Tông Môn Thiên Tự Văn và Tham Thiền Tụng” nên nội dung sách này bao gồm:

Phật Giáo Tam Tự Kinh 2.196 chữ,

Tông Môn Thiên Tự Văn 1.000 chữ,

Tham Thiền Tụng 1.728 chữ,

Như thế tổng cộng là 4924 chữ. Cuối cùng, thêm phần phụ lục các câu đối trong các chùa Việt Nam, Trung Quốc va chúng tôi mạo muội đổi tên nhan đề tập sách là “ Đường vào thiền học” để phù hợp với nội dung của nó.

Có thể nói tập sách nầy là một hành trang không thể thiếu trong tay nải của Tăng Ni. Mong rằng nó sẽ được quý vị hiếu học ham tu tiếp nhận nồng nhiệt . Chúng tôi xin trân trọng dịch sang tiếng Việt và giới thiệu đến quý vị.

Trung thu năm Tân Tỵ ( 09/ 2001)

Thông Thiền

LÝ DO IN LẠI “PHẬT GIÁO TAM TỰ KINH”

Quyển “Phật Giáo Tam Tự Kinh” do Xuy Vạn Lão nhân sống vào đời Minh làm ra, tiện cho người mới học học thuộc, hiểu rõ.

Phía sau văn kinh là phần chú thích của Trưởng lão Mẫn Tu, giúp cho người đọc nắm được ý nghĩa vốn được viết cô đọng của văn kinh mà biết rõ sự lý, quả là rất tốt.

Thầy tôi là ngài Ấn Quang, thấy phần chánh văn của sách nầy chưa đầy đủ, chú thích chưa rõ ràng nên theo đó mà bổ sung sửa chữa lại, và vẫn để tên sách như cũ.

Bậc tiền bối xa quê là cư sĩ Dương Nhân Sơn lại nhuận sắc cho văn của Ngài, bỏ rườm rà lấy tinh giản, theo lời chỉ giáo của mọi người lấy tên sách là “Phật giáo sơ học khoá bản” .

Kinh của cổ đức, có đến bốn người cầm bút viết thành sách rất đầy đủ, sáng sủa. Kẻ sơ cơ đọc trên 2.000 chữ nầy, đối với những truyền thừa còn để lại của Phật Tổ, sự phân biệt chi phái của mười tông ,giáo lý đại cương được phân tích rõ ràng dẫn dắt người học phật đến tận nguồn coi. Đây là quyển sách rất gọn, rất tốt vậy.

Nhờ sự giới thiệu của ba vị đại sư là Nam An Quang và Diễn Bồi, được sự phát tâm mạnh mẽ bõ vốn của chư thiện tín : hoăc cung cấp nơi ngủ nghỉ, thức ăn đồ uống , hoặc chạy lo quyên góp, mặc dù văn bản có lầm lẫn, trải qua nhiều lần lóng ý chuyên tâm sửa chữa, mọi việc đều sẳn sàng. Nhưng nhiều người lắm ý, kẻ thì bảo sách “Tứ Huấn đã xong, người thì muốn ấn hành “Phật pháp Đạo Luận”. Vốn là định in tiếp “Tâm Kinh Giảng Nghĩa” của Đại sư Nam nhưng thấy tiền đã đủ nên mới đổi ý in sách nầy , dùng vốn của nhân sĩ Đại Cương .

Xem lại quá trình in Tứ Huấn .Đạo Luận thấy bị nhiều chướng ngại, hơn mười tháng mới hoàn thành. Riêng sách nầy thì xuất hiện ở nơi lời lẽ nhẹ nhàng, sao lại làm khó dễ nhau như thế.

Hơn nữa Trí Lão Sư phát tâm đem sách nầy ra giảng nói. Đây càng không đúng với điều dự định, nên mới bảo với Ngài rằng cơ hội chưa đến. Đâu không phải là đều nghịch ý với thường tình và khó làm khó nhẫn.

Thực hành lời khuyên tốt đẹp của người là cách tiến tu đạo nghiệp. Xét đến cùng tột, hình như không có việc gì mà không thể làm được .Từ nay cho đến mai sau tôi chỉ biết cố gắng vậy .

TỰA CŨ

Quyển “Phật Giáo Tam Tự Kinh” do Xuy Vạn Lão Nhân sống vào đời Minh phỏng theo cách dạy người thế tục mà làm ra, Trưỡng Lão Mẫn Tu chú thích, được lưu truyền trên 200 năm. Pháp sư An Quang ở chùa Phổ Đà ( Trung Quốc) nương theo sách ấy mà viết lại, sửa 3/10 phần chánh văn, 7/10 phần chú thích ; nguyên bản chép thành 2 hàng, Ngài sửa lại thành 1 hàng. Khảo cứu và dẫn chứng tinh tường, lời văn mượt mà, hay hơn bản cũ, và chỗ đề tên, Ngài không đem tên người trùng đính (sửa lại ) xếp bên cạnh tác giả, có thể bảo rằng ngài thản nhiên quên được bản ngã rồi vậy !

Tôi không lượng được hết chỗ nông cạn của mình nên đã tỏ ra thiếu thận trọng trong khi biên thuật lại, so ra hai bản mới cũ khác nhau xa : sự việc có lược bớt mà pháp vẫn đầy đủ, ngôn từ tuy giản dị mà nghĩa lý vẫn chu toàn .Mọi người khuyên tôi nên đổi nhan đề của sách, do đó tôi đặt tên sách là “Phật giáo sơ học khoá bản”. ( Sách giáo khoa sơ cấp phật học ).

Tháng 2, mùa xuân năm Quang Tự thứ 32

Thạch Đại Dương Văn Hội, họ Nhân Sơn

TỰA

“Diệu tánh hoàn toàn trong sáng”, vốn không có thế giới chúng sanh, bởi một niệm vọng đông nên nhân quả từ đây phát hiện. Chơn tâm bặt đới đãi vốn không khác biệt xưa nay, nếu một niêm viên thông thì các pháp há có hạn lượng cho ta biết được .

Chúng sanh không thấu rõ, quên chơn theo vọng nên y báo và chánh báo có nhiều lớp chương ngại. Bởi huyễn hoá không thật nên có cái gì chơn cái gì giả; Vọng tưởng chẳng chơn thì ai phải ai quấy. Người đạt lý nầy thì đối với tâm cảnh sẽ tự nhiên giải thoát. Chơn tâm một khi phát sáng, ánh sáng của tự tánh riêng chiếu vượt khỏi căn trần sẽ liễu ngộ được các thứ như thế giới và chúng sanh đều là bóng dáng trong diệu minh tâm của chúng ta .

Kinh nói: “Tâm sanh nên muôn pháp sanh, tâm diệt nên muôn pháp diệt” Cũng như cụm mây nổi giữa bầu hư không trong trẻo, như bóng trong gương, như hoa đốm giữa hư không như bóng trăng đáy nước thảy đều không thật. liễu ngộ như thế thì chơn tâm sáng rực không mơ, diệu lý thường trụ tự nhiên sẽ sáng suốt. Chỉ vì chúng sanh không ngộ tự tánh, chơn tâm diệu minh đến nỗi bỏ gốc theo ngọn, bội giác hợp trần, niệm niệm thay đổi mà chẳng chút tỉnh giác. Vọng nhận bóng dáng sáu trần làm thật mà không biết rằng trần cảnh vốn không, nên theo nghiệp nhiễm của thiện ác xoay lăn trong sáu đường sanh tử chịu các khổ não, không biết đến tới bao giờ mới giải thoát.

Nếu không gặp được Đức Phật, hoặc thánh giáo của đấng Đại giác từ tôn để quay về kính cẩn nương theo, ngõ hầu cứu pháp thân huệ mạng của chúng ta thì “diệu tánh hoàn toàn trong sáng” nói trên sẽ chìm đắm trong biển khổ sanh tử, sẽ bị vùi chôn dài lâu trong núi ngũ uẩn, còn chờ khi nào mới tìm được giải thoát. Phải biết địa ngục trần gian thân tâm huyễn cảnh, tất cả vô thường như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương, như ánh chớp. Mọi người phải biết thân người khó được, phật pháp khó nghe, nghe rồi tu trì giống như kẻ nghèo khốn gặp được châu báu, như trong đêm tối gặp đèn. Hiểu rõ ngộ suốt vũ trụ, nhân sinh, chơn lý, chơn trí thì pháp thân thường trụ cùng với Phật bình đẳng không hai không khác.

Nếu dùng cho nầy ngộ mình ngộ người, tự giác giác tha, cùng thành vô thượng chánh giác thì thế gian cùng xuất thế gian lại còn có chơn lý hay chổ vi diệu nào khác mà tìm ?

Thế nên, muốn khảo sát tận cùng thật tướng của các pháp, trước tiên phải học thuộc nghiên cứu kỹ sách “ Phật Giáo Tam Tự Kinh”, ý chính của mười tông để làm cương lĩnh căn bản.

PL. 2988 năm Tân Sửu

Quán Am Tử Trúc Lâm, Thích Lãng Giác soạn

法界

PHÁP GIỚI

無 始 終

Vô thuỷ chung

Không có trước sau

無 内 外

Vô nội ngoại

Không có trong ngoài

強 立 名

Cưỡng lập danh

Gắng gượng đặt tên

爲 法 界

Vi pháp giới

Gọi là pháp giới

KHÔNG CÓ TRƯỚC SAU :

Thời gian kiếp số có thay đổi đều do chúng sanh nhận thức mê lầm. Đối với bậc chứng đạo có thể đem kiếp dài vào trong kiếp ngắn, đem kiếp ngắn vào trong kiếp dài, nên biết không có trước sau.

KHÔNG CÓ TRONG NGOÀI :

Một hạt bụi hiện thành pháp, đem pháp giới nhét vào một hạt bụi, làm gì có trong ngoài.

GẮNG GƯỢNG ĐẶT TÊN :

Vốn không thể gọi tên ,vì hoá độ chúng sanh nên gắng gượng đặt tên mà thôi.

GỌI LÀ PHÁP GIỚI :

Ngay nơi có chính là không, nên một pháp chẳng lập. Ngay nơi không chính là có nên muôn pháp hiển bày.

------------------------------


法界性

Pháp giới tánh

Thể tánh pháp giới

即法身

Tức pháp thân

Tức là pháp thân

因不覺

Nhân bất giác

Do vì bất giác

號無明

Hiệu vô minh

Gọi minh

THỂ TÁNH PHÁP GIỚI :

Chơn vọng bình đẳng , đồng một thể tánh

TỨC LÀ PHÁP THÂN :

Mười cõi đều gồm đủ, không có sai biệt .

DO VÌ BẤT GIÁC:

Vì không thông suốt Nhất pháp giới nên tâm chẳng tương ương

GỌI LÀ VÔ MINH:

Bất chợt vọng niệm khởi lên gọi là vô minh

空色現

Không sắc hiện

Từ không hiện sắc

情器分

Tình khí phân

Chúng sanh thế giới

三世間

Tam thế gian

Ba thứ thế gian

從此生

Tùng thử sanh

Từ đây sanh khởi

TỪ KHÔNG HIỆN SẮC :

Kinh Lăng nghiêm nói:“Lấy chổ mờ mịt làm hư không. Trong khoảng hư không mờ mịt đó, đan kết các tối tăm làm sắc”. Lại nói: “hư không sanh trong đại giác giống như hòn bọt giữa biển khơi, rất nhiều cỏi nước hữu lậu nương vào hư không mà hình thành”.

CHÚNG SANH THẾ GIỚI :

Hữu tình thế gian (chúng sanh ), khí thế gian ( thế giới ) đều nhờ đây kiến lập .

BA THẾ GIAN :

Cùng với chánh giác thế gian, ấy là ba thứ thế gian .

TỪ ĐÂY SANH KHỞI :

Từ Như Lai Tạng biến thành A lai da. Từ A- lai-da biến thành căn thân thế giới.

Còn chuyển từ A- lai- da trở thành Như Lai Tạng thì thành chánh giác thế gian. Chính là điều

mà kinh nói : “Không gì chẳng từ pháp giới nầy sinh ra,và không gì chẳng trở về pháp giới này” .

--------------------------------

迷則凡

Mê tắc phàm

Quên mất làm phàm

悟則聖

Ngộ tắc thánh

Nhận ra làm thánh

真如體

Chơn như thể

Thể tánh chơn như

須親證

Tu thân chứng

Cần phải tu chứng

QUÊN MẤT LÀM PHÀM :

Quên mất thể tánh thì làm lục phàm.

NHẬN RA LÀM THÁNH :

Nhận ra thể tánh thì làm tứ thánh.

THỂ TÁNH CHƠN NHƯ:

Không gì có thể bỏ đi vì tất cả pháp đều chơn, cũng không thể lập vì tất cả pháp đều như.

CẦN PHẢI THÂN CHỨNG :

Chổ nầy rất khó lường được, chỉ người nào thân chứng mới biết. Nếu dùng tâm suy nghĩ để tìm kiếm sẽ giống như đem lửa đom đóm hòng đốt núi Tu -di, không bao giờ làm được

釋迦佛生

THÍCH CA PHẬT SANH

CUỘC ĐỜI PHẬT THÍCH CA


Chứng giả thùy

Người nào chứng nhập

Thích-ca tôn

Là đấng Thích-ca

Đại bi nguyện

Sức nguyện đại bi

Thị đản sanh

Thị hiện đản sanh

NGƯỜI NÀO CHỨNG NHẬP :

Chẳng hỏi người chứng nhập từng phần, chỉ hỏi ai là người chứng nhập rốt ráo ?

LÀ ĐẤNG THÍCH CA :

Phật Thích - ca Mâu ni là đấng tôn quý duy nhất trong ba cỏi, là vị Phật thứ tư trong ngàn vị Phật đời hiền kiếp.

SỨC NGUYỆN ĐẠI BI :

Chư Phật sở dĩ thành đạo, bởi các ngài đều dùng sức nguyện đại bi để thực hành Bồ tát đạo .

THỊ HIỆN ĐẢN SANH:

Thích - ca ứng hiện thân phàm, từ cõi trời Đâu Suất giáng sanh xuống nước Ca- duy- la- vệ. Cha ngài tên Tịnh Phạn, mẹ ngài tên Ma-da. Ở trong thai mười tháng rồi ngài được sanh ra đời từ hông bên phải, tên là Tát- bà Tất- đạt, nhằm ngày mồng 8 tháng 4 năm 24 đời Chu Chiêu Vương (565 trước TL).

Sau đây là tám tướng thành đạo khi Phật ứng thân :

1- Từ cỏi trời Đâu Suất xuống

2- Vào bào thai

3- Ở trong thai

4- Ra khỏi thai

Ngoài bốn tướng nầy ra ,bốn tướng còn lại sẽ được nêu rõ ở bài sau.theo quan điểm Đại thừa, khi đức Phật còn trong thai mẹ đã trụ nơi lầu gác to lớn, độ chúng sanh vô lương , nên có tướng “ở trong thai” ; còn theo Tiểu thừa thì không thấy đề cặp .


處 王 宮

Xử vương cung

trong vương cung

求 岀 離

Cầu xuất ly

Mong muốn xuất gia

夜 踰 城

Dạ thâu thành

Nửa đêm vượt thành

人 不 知

Nhân bất tri

Người chẳng biết hay


Ở TRONG VƯƠNG CUNG, MONG MUỐN XUẤT GIA :

Khi Thái tử Tất-đạt ở trong vương cung , đối với các môn học thế gian ngài đều học giỏi hơn mọi người. Đối với những thú vui ngũ dục, ngài đều hưởng dụng đầy đủ .Lúc mười chín tuổi ngài du ngoạn nơi bốn cửa thành , thấy cảnh già, bệnh, chết nên sanh tâm nhàm lìa; bỗng gặp vị sa môn liền có ý vui thích, muốn xuất gia. Nhưng bị vua cha cho người phòng vệ nghiêm mật .

NỬA ĐÊM VƯỢT THÀNH , NGƯỜI CHẲNG BIẾT HAY:

Chư thiên ở cỏi trời tịnh cư khiến cho quân sĩ và tỳ nữ ngủ say. Cho đến nữa đêmThái tử cưởi ngựa ,trời Tứ thiên vương nâng chân ngựa vượt thành ra đi. Mọi người chẳng hay biết . Sau đó Thái tử cạo tóc , thay đổi y phục và làm sa môn .

Đây là tướng thứ năm: Xuất gia.

入 雪 山

Nhập tuyết sơn

Đi vào tuyết sơn

修 苦 行

Tu khổ hạnh

Siêng tu khổ hạnh

六 年 間

Lục niên gian

Trong khoảng sáu năm

習 寂 定

Tập tịch định

Tu tập tịch định


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét