Tựa “Phật Học Biểu Giải” của Tác giả
“Biểu giải” là đem nghĩa lý văn chương rườm rà làm thành sản phẩm tinh giản cô đọng, là đem một ít trí thức học thuật để biểu đạt, phơi bày một cách có tổ chức, có hệ thống. Biên soạn một bài “Biểu giải” thường phải tham khảo rất nhiều tài liệu có liên quan mới có thể sắp xếp thích đáng, bổ xuyết để hoàn thành.
Tôi nhờ vào phương tiện đọc sách, từng theo cách học Phật của kẻ sơ cơ, tham cứu tác phẩm của các bậc hiền tài đời trước, biên soạn 57 bài “Phật học biểu giải” (Biểu đồ giải thích Phật học). Việc làm này mặc dù không phải là một sáng kiến mới mẻ, nhưng cấu tạo nội dung lại có chỗ cải tiến phong phú. Đối với những ai nghiên cứu Phật học, “Biểu giải” này đáng được xem là có công dụng “bỏ rườm rà lấy tinh giản, xem qua là hiểu ngay”.
Mùa đông năm Dân Quốc thứ 65 (1976), “Nguyệt san Từ Vân” yêu cầu tôi cung cấp bản thảo. Khi ấy, ngoài việc soạn mục “Phật học vấn đáp” trên báo này, tôi cũng từng đem “Biểu giải” cho đăng lần lượt để lấp đầy số trang báo. Nay “Đài Bắc Phổ Môn văn khố” muốn đem tập “Biểu giải” này in thành sách để truyền bá rộng rãi. Các ngài có lòng hộ trì giáo pháp, cần cù vì đạo, tôi lẽ nào không quyên tặng, thành thực tùy hỷ, vui thích giúp đỡ để hoàn thành ?
Chỉ vì việc tu hành tự độ chưa siêng, đạo học còn nông cạn, thật tình lo sợ chỗ trình bày nghĩa lý vụng về hoặc có điều chi chưa ổn. Thế nên, kính mong các vị Thiện trí thức chớ tiếc lời chỉ giáo để tập sách này được hoàn bị hơn thì hân hạnh cho tôi lắm !
Đài Loan, tháng 2 năm 1980.
THÍCH TƯỜNG VÂN
TIỂU SỬ
Đại Lão Hòa Thượng thượng TƯỜNG hạ VÂN
Hòa thượng họ Lý húy Mạnh Tuyền, sinh năm Dân Quốc thứ 6 (1917) tại huyện Hải Thành, tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc, dòng dõi Nho học.
Từ bé, Hòa thượng đã giàu lòng thương yêu; lớn lên một chút ngài cảm nhận đời người ngắn ngủi, thế sự vô thường, nên tha thiết ngưỡng mộ chân đạo. Năm 20 tuổi, ngài phát nguyện thờ Phật ăn chay, lộ rõ chí xuất gia và theo học ở “Viện giảng dạy và học tập Phật học Bát-nhã ở Trường Xuân”, nghiên cứu nội điển.
Hồi còn trẻ, ngài từng làm ký giả, giáo sư. Sau đó ngài dời sang Đài Loan, lại cảm ngộ đời người vô thường, thế sự nhiều biến đổi nên chí xuất gia thường manh nha nơi lòng. Sau nhiều lần trắc trở, cuối cùng vào khoảng năm 1961, ngài đến chùa Viên Giác tại Đài Bắc, nương Hòa thượng thượng Huyền hạ Diệu làm thầy thế độ, thành tựu ước nguyện xuất gia. Khi ấy ngài được 45 tuổi, pháp danh Hội Nguyên, pháp hiệu Viên Định, nhưng phần lớn ngài dùng biệt hiệu Tường Vân trong các sách báo lưu hành. Cùng năm đó, ngài thọ giới cụ túc tại chùa Hải Hội ở Cơ Long do Trưởng lão Đạo Nguyên làm Hòa thượng đàn đầu.
Trong vòng 14 năm sau khi xuất gia, ngài lần lượt đến các chùa ở Đài Loan để xem Đại tạng, hoặc tu trì khổ hạnh, hoặc phát triển giáo nghĩa, hoặc chuyên tâm sáng tác, không cầu nổi tiếng trong chốn tùng lâm. Sau đó, do lời mời của giáo hội nên ngài bắt đầu tùy duyên độ chúng. Ngài từng giữ các chức vụ : Phó thư ký Giám sự ; Thường vụ Hội Phật giáo Đài Loan, người xử lý thường vụ Hội Phật giáo thành phố Đài Bắc; Chủ nhiệm ủy viên Hội Hoằng pháp Phật giáo Đài Loan, ủy viên Hội Văn Hiến, ủy viên Hội Xúc tiến quan hệ Phật giáo Trung – Nhật, Trung - Hàn, ủy viên Hội Truyền giới; thành viên ban giám đốc Hội sở Phật- đà Giáo dục cơ kim hội, Giám đốc tạp chí xã Phật đà giáo dục, uỷ viên chủ bút tư vấn biên soạn Phật học cho các tờ báo : Phật giáo Từ Minh nguyệt san, Giác Thế tuần san, Sư Tử hống nguyệt san, Từ Vân nguyệt san, Thiên Hoa tạp chí. Ngài còn làm A-xà- lê, tôn chứng cho ba đại giới đàn mở tại Hội Phật giáo Đài Loan, chùa Thanh Lương ở Đài Trung, chùa Linh Nham sơn ở Phố Lý. Hơn nữa, ngài còn nhận lời mời của các nơi giảng kinh hoằng pháp như: Từ Hàng đường ở Tịch Chỉ, Pháp Luân giảng đường, Linh Sơn giảng đường, Hoa Tạng giảng đường, và làm giáo sư Phật học tại các Phật học viện Hải Minh, Tịnh Giác.
Tác phẩm : Sám nguyện thất văn tập, Huệ Nhứ tập, Sám nguyện thất Phật học vấn đáp v.v... có trên 10 loại.
Hòa thượng cả đời phong cách cao siêu đức độ sáng ngời, không cậy nhờ, không quyên góp, tinh tấn tu trì dù ở ngõ hẻm cũng vui. Tánh tình chân thành chất phác, bốn chúng đều mến phục, rất được tôn sùng trong chốn tùng lâm. Một đời làm rạng rỡ Phật giáo hoằng pháp lợi sanh, tiếp nối huệ mạng của chư Phật mà hy sinh phụng sự, nhận lấy trọng trách, không từ khó nhọc không ngại oán hờn, hết lòng hết sức làm tròn bổn phận, quyết không từ chối ! Cuối cùng vì lao lực quá sức nên thành bệnh. Vào ngày 8 tháng 7 năm 1999 (nhằm ngày 25-5 âl), lúc xế trưa trong tiếng niệm Phật bi nghiêm của 2 đệ tử Dung Toàn và Nhã Huệ, ngài an tường thị tịch.Trước lúc lâm chung, ngài còn nhiều lần dặn dò đệ tử nhất thiết cần phải tinh tấn trì giới niệm Phật để liễu thoát sanh tử, đồng sanh Lạc quốc; cho đến việc hậu sự nhất thiết phải tổ chức đơn giản.
Hòa thượng ra đi cố nhiên là tự tại, nhưng chốn tùng lâm pháp vụ còn nhiều, chúng sanh sầu khổ chưa hết. Ngưỡng mong Hòa thượng thương xót chúng sanh nương nguyện lực tái lai.
THỂ LỆ CHUNG
1. Bản dịch Việt ngữ “Biểu đồ giải thích Phật học” của chúng tôi là căn cứ vào quyển “Phật học biểu giải” của H.T Thích Tường Vân bản mới nhất của tinh xá Tường Quang, Đài Loan, ấn tặng kết duyên vào tháng7 năm 2000.
2. Tập “Biểu đồ giải thích Phật học” này gồm 32 bài, mỗi bài có thể là1 hoặc 2 hoặc 3, 4, 5 biểu đồ, tổng cộng 57 biểu đồ như tác giả đã giới thiệu ở Lời tựa.
3. Mỗi bài có phần Tài liệu tham khảo riêng, ghi ở phần phụ chú.
4. Mỗi tựa đề đều được dịch nghĩa và có kèm phần phiên âm trong ngoặc đơn. Thí dụ: Ba nghiệp, mười nghiệp và sáu đường (Tam nghiệp, thập nghiệp dữ lục đạo).
5. Có những bài khuôn khổ quá lớn nên buộc lòng chúng tôi phải xếp đôi lại cho vừa tập sách.
Mục Lục
TỰA “PHẬT HỌC BIỂU GIẢI” CỦA TÁC GIẢ.
TIỂU SỬ ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG, THƯỢNG TƯỜNG HẠ VÂN
THỂ LỆ CHUNG.
BÀI 1. BA NGHIỆP, MƯỜI NGHIỆP CÙNG VỚI SÁU ĐƯỜNG (1 biểu đồ)
BÀI 2. CÕI NGƯỜI TRONG BỐN CHÂU (1 biểu đồ)
BÀI 3. CÕI TRỜI (1 biểu đồ)
BÀI 4. 25 HỮU, 3 CÕI, 6 ĐƯỜNG (1 biểu đồ)
BÀI 5. HAI LOẠI KHỔ, BA LOẠI KHỔ, 3 LOẠI KHỔ PHỐI VỚI 12 NHÂN DUYÊN, 8 LOẠI KHỔ, 10 LOẠI KHỔ Ở CÕI NGƯỜI (5 biểu đồ)
BÀI 6. BA THỨ CHƯỚNG (7 biểu đồ)
BÀI 7. NHÂN QUẢ KHỔ VUI TRONG 10 PHÁP GIỚI, GIÁC MÊ KHỔ VUI TRONG 10 PHÁP GIỚI (2 biểu đồ)
BÀI 8. TAM BẢO (1 biểu đồ)
BÀI 9. SO SÁNH CÔNG ĐỨC TAM BẢO (1 biểu đồ)
BÀI 10. BA THÂN VÀ BỐN CÕI NƯỚC (1 biểu đồ)
BÀI 11. BA TẠNG, BỐN TẠNG, NĂM TẠNG (1 biểu đồ)
BÀI 12. MƯỜI HAI THỂ LOẠI KINH (1 biểu đồ)
BÀI 13. LỊCH SỬ KẾT TẬP KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO (1 biểu đồ)
BÀI 14. BỘ PHÁI PHẬT GIÁO TIỂU THỪA ẤN ĐỘ (1 biểu đồ)
BÀI 15. SÁU TÔNG HOA NGHIÊM TÓM TẮT HAI MƯƠI BỘ PHÁI TIỂU THỪA ẤN ĐỘ (1 biểu đồ)
BÀI 16. BA DẤU ẤN CHÁNH PHÁP, BỐN DẤU ẤN CHÁNH PHÁP CỦA TIỂU THỪA; MỘT DẤU ẤN CHÁNH PHÁP CỦA ĐẠI THỪA, BỐN ĐIỀU Y CỨ, BỐN TRƯỜNG HỢP PHIÊN DỊCH, NĂM THỨ CHẲNG PHIÊN DỊCH (5 biểu đồ)
BÀI 17. BỐN THỨ TỨ ĐẾ (1 biểu đồ)
BÀI 18. BA ĐỜI HAI LỚP NHÂN QUẢ CỦA MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN VỚI HOẶC NGHIỆP KHỔ BA CHƯỚNG (1 biểu đồ)
BÀI 19. BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO (1 biểu đồ)
BÀI 20. SÁU ĐỘ VÀ MƯỜI ĐỘ, MƯỜI ĐỘ ĐỀU CÓ BA HẠNH (1 biểu đồ)
BÀI 21. BỐN TIÊU CHUẨN VỀ SỰ THẬT, BỐN TÂM BỒ-TÁT, BỐN TÂM VÔ LƯỢNG, BỐN HẠNH NHIẾP HÓA (4 biểu đồ)
BÀI 22. BẢY GIA TÀI CỦA BẬC THÁNH (4 biểu đồ)
BÀI 23. SỰ LÝ CỦA BA CÁCH SÁM HỐI (1 biểu đồ)
BÀI 24. ĐẠI CƯƠNG GIỚI HỌC (1 biểu đồ)
BÀI 25. NĂM GIỚI VÀ NĂM THƯỜNG. NĂM GIỚI VÀ MƯỜI ĐIỀU THIỆN (2 biểu đồ)
BÀI 26. NĂM UẨN VÀ BẢY ĐẠI (1 biểu đồ)
BÀI 27. SÁU CĂN, SÁU TRẦN, SÁU THỨC, MƯỜI HAI XỨ, MƯỜI TÁM GIỚI VÀ SẮC PHÁP, TÂM PHÁP (1 biểu đồ)
BÀI 28. TÁM THỨC, CHÍN THỨC VÀ BỐN TRÍ, NĂM TRÍ (1 biểu đồ)
BÀI 29. TÁM THỨC TÂM VƯƠNG VÀ NĂM MƯƠI MỐT TÂM SỞ (1 biểu đồ)
BÀI 30. MƯỜI SỬ VÀ HAI HOẶC (1 biểu đồ)
BÀI 31. MUÔN PHÁP CHỈ LÀ BIỂU HIỆN CỦA THỨC (1 biểu đồ)
BÀI 32. NĂM LẦN “500 NĂM”, THEO THỨ TỰ “500 NĂM”, NĂM ĐIỀU RỐI LOẠN THỜI MẠT PHÁP, NĂM PHÁP GIÚP CHO CHÁNH PHÁP BẤT DIỆT VÀO THỜI MẠT PHÁP. (4 biểu đồ)
—
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét