Thứ Tư, 3 tháng 3, 2010

TÔNG MÔN THIÊN TỰ VĂN

HÒA THƯỢNG TRÚC TIÊN

TÔNG MÔN

THIÊN TỰ VĂN

Thông Thiền dịch

PL- 2548 -2004

GIỚI THIỆU TÁC PHẨM VÀ TÁC GIẢ

]

Đời Nguỵ, Thái phó Chung Do đầu tiên biên tập quyển Thiên Tự Văn, Hữu tướng quân Vương Hi Chi phụng sắc chép lại. Sách này rất được vua Tấn Võ Đế trân trọng. Đến thời Nam Bắc triều bị vua Tống Văn Đế phá hoại khiến cho không thể hiểu nổi. Về sau vua Lương Võ Đế sai Chu Hưng Tự họa vần làm cho nó trở lại nguyên vẹn như cũ. Thể tài của nó là thơ cổ bốn chữ, 250 câu, gồm có 1000 chữ, thứ lớp hoàn chỉnh không trùng lặp một chữ.

Quyển Tông Môn Thiên Tự Văn là nguyên tụng của Chung Do, được Hoà thượng Trúc Tiên làm thơ vịnh thuật về giáo nghĩa và lịch trình của Thiền tông vào niên hiệu Lịch Ứng thứ 2 ( 1328 ). Văn tự tuy phong phú trang nhã nhưng thứ tự lộn xộn không chỉnh tề, khó tránh khỏi sự chê bai của những người thích văn chương trau chuốt sáo rỗng. Sau do đáp ứng lời thỉnh của mọi người, sư nhiệt tình chú thích kỹ càng, mỗi câu chêm vào chú giải cốt để tiện ích cho kẻ đồng mông (người chưa hiểu biết gì). Còn làm thêm 20 câu “Thích vấn” đặt ở cuối sách. Sách này tuy khó tránh khỏi bị chê là sa vào thiền văn tự, nhưng vì thương xót kẻ mới học, xuất phát từ lòng từ bi mới dùng phương tiện để cử dương tông yếu.

Tác giả là Phạm Tiên, tự Trúc Tiên, hiệu Lai Lai Thiền Tử. Sư người huyện Tượng Sơn, Minh Châu ( nay là huyện Tượng Sơn, tỉnh Chiết Giang), con của ông Từ Cảnh Dương, sinh vào niên hiệu Chí Nguyên thứ 29 (1292),đời Nguyên . Sáu tuổi sư đi học, mười tuổi tìm đến chùa Tư Phước ở Ngô Hưng làm Khu ô sa-di. Năm 18 tuổi nương theo Ẩn Công chùa Linh Sơn ở Hàng Châu thọ công điệp, lễ bái Thiền sư Hổ Nham Phục xin xuống tóc. Đi du phương, ban đầu tham học các bậc lão túc như Hối Cơ, Vân Ngoại, Cảnh Nguyên, Đông Tự, Chỉ Nham, Trung Phong. Về sau nghe Hoà thượng Cổ Lâm Mậu ở Bảo Ninh đề xướng sư hoát nhiên đại ngộ. Từ đó về sau, sư giảng thuyết kinh sách thật trong sáng, thanh lương; tiếng tăm lừng lẫy.

Trong khi Sư trở về Đông Chiết, lên núi Kính Sơn, gặp lúc Hòa thượng Minh Cực đi Nhật Bản, sư xin đi theo. Vào tháng 6 niên hiệu (1329) Nguyên Đức nguyên niên (Nhật Bản) sư đến phủ Thái Tể ở Nhật Bản lúc 37 tuổi. Tháng 2 năm sau, sư đến Liêm Thương ở Tương Châu, ngụ ở chùa Kiến Trường, gặp gỡ Bắc Điều Cao thời cảm thấy như biết nhau từ lâu. Minh Cực trụ chùa Kiến Trường, sư làm Đệ nhất tọa. Niên hiệu Kiến Vũ nguyên niên ( 1334 ) sư trụ trì chùa Tịnh Trí, tìm chỗ xây tháp cho tuổi già tại viện Lăng Già dưới đỉnh núi Thiên Trụ. Niên hiệu Diên Nguyên thứ 3 (1338), sư khai sơn chùa Vô Lượng ở Quan Đông. Niên hiệu Hưng Quốc thứ 2 (1341), sư nhận lãnh chùa Nam Thiền ở Kinh Đô, rút lui khỏi chùa Chân Như, nhiều lần dời qua chùa Kiến Trường. Tháng 4 niên hiệu Chính Bình thứ 3 (1348), sư có bệnh nên chối từ mọi việc, ngày 16 tháng 7 tịch diệt nơi viện Lăng Già chùa Tịnh Trí, thọ 57 tuổi, tuổi hạ 39. Tác phẩm: Tông Môn Thiên Tự Văn, Ngữ lục 2 quyển. Ngoài ra có Thiên Trụ Tập chính là tập thi văn của sư, do Từ Lâm truyền bá.

TÔNG MÔN THIÊN TỰ VĂN

]]]

1.

Thiên địa huyền hoàng

Pháp đạo hà hoang

Thương sanh xuất một

Phật Tổ thi trương

Trời đen còn đất vàng,

Pháp đạo thật mênh mang.

Chúng sanh nổi chìm mãi,

Tỉnh giác, Phật chỉ đường.

Chú Giải:

玄黃Huyền hoàng: Đen, vàng. Màu sắc của trời đất.

法道Pháp đạo = Pháp thân: Bản thể của tự tánh cùng khắp không gian và thời gian.

: xa

Hoang: là chỗ rất xa, ngoài dấu chân người bước đến, nên bát biểu cũng còn gọi là bát hoang

玄黃 Thiên địa huyền hoàng,Pháp đạo hà hoang: Vì lẽ đạo này gồm thâu trời đất, chan chứa cả muôn loài, bao trùm tất cả, bát ngát mênh mông, trông mà chẳng thấy, lắng mà chẳng nghe, rỗng lặng nhiệm mầu, tình thức không thể lường nổi nên nói là hà hoang.

Thương sanh: Chúng sanh

出没Xuất một: Nổi chìm.

施张Thi trương = Thi thiết

施設 : Chọn lấy biện pháp để dẫn dắt người khác tu học.

生出没佛祖施张Thương sanh xuất một, Phật Tổ thi trương: Chúng sanh ở nơi pháp thân này lại nổi chìm trong sanh tử mà chẳng tự biết thế nên Phật Tổ ra đời để tỉnh thức họ.

ĐẠI Ý:

Khi mới khai thiên lập địa, thế giới ra đời, thì trời là màu đen, đất là màu vàng. Nhưng pháp thân (đạo này) lại bao trùm trời đất, chan chứa cả muôn loài. Chúng sanh ở trong đạo này mà chẳng tự biết nên nổi chìm trong sanh tử. Vì thế Phật Tổ ra đời lập bày phương tiện để thức tỉnh họ

2.

Tư duy diễn thuyết

Chiêu trước hàm tàng

Phẩu tích không hữu

Bao quát âm dương

Tư duy và diễn thuyết,

Sáng sủa lẫn hàm tàng.

Phân tích nghĩa không hữu,

Bao quát lý âm dương.

Chú Giải:

思惟Tư duy= Thiền định: Tĩnh tâm quán sát.

演說Diễn thuyết: Nói rộng ra về ý kiến của mình cho nhiều người khác nghe.

昭著Chiêu trước: Sáng sủa.

含藏Hàm tàng: Chứa đựng.

剖析Phẫu tích: Chia chẻ.

空有không hữu: Không là đả phá; Hữu là kiến lập. Đây là hai hệ thống tư tưởng lớn của Phật giáo.

思惟演 昭著含藏剖 析空有Tư duy diễn thuyết,Chiêu trước hàm tàng.Phẩu tích không hữu: Hai mươi mốt ngày sau khi Phật thành đạo, ngài tư duy về đạo pháp này rồi đến Tiên Uyển và các trụ xứ, trong khoảng mười hai năm, Phật thuyết về các pháp hữu vi do duyên sinh nên vô ngã, nhưng chưa nói đến lý “Pháp vô ngã”,gọi là Sơ thời giáo, tức một tạng kinh Tiểu thừa như A- hàm...

Thứ đến, nương vào tự tính giả lập (Biến kế sở chấp ), Phật thuyết về chư pháp không, nhưng chưa nói đến Tự tính tùy thuộc (Y tha khởi) và Tự tính tuyệt đối (Viên thành thật), gọi là Không giáo.

Kế, Phật nói về pháp tướng Đại thừa Cảnh không tâm hữu, gọi là Trung đạo giáo, tức các kinh như Thâm Mật...

Tiếp đến, Phật khai thị về Như Lai tri kiến của tất cả chúng sanh, gom ba thừa họp thành một thừa, dung thông pháp phương tiện trở về pháp chơn thật gọi là Đồng qui giáo, là kinh Pháp Hoa vậy.

Lúc sắp vào Niết-bàn, Phật thuyết tất cả chúng sanh cho đến hạng Xiển-đề đều có Phật tánh, hễ ai có tâm thì nhất định sẽ thành Phật đủ bốn tính chất: Thường, lạc, ngã, tịnh gọi là Thường giáo, tức kinh Đại Niết-bàn.

Nhưng kinh giáo còn ở Thiên Trúc (Ấn Độ) chưa đến Trung Hoa, có kinh được cất ở Long cung, có kinh chưa được phổ biến ở cõi Diêm-phù. Vì sao thế? Trước kia, khi phẩm sau của kinh Niết-bàn chưa đến Trung Hoa, pháp sư Đạo Sanh nhờ thiên tư diệu ngộ thêm chuyên nghiên cứu, bảo rằng: “Người mà lòng tin chẳng đủ (Xiển-đề) sẽ thành Phật.” Khi ấy, kinh Niết-bàn chưa được phổ biến nên các nhà sư văn tự không thấu rõ, phản công ngài, cho là tà thuyết; đối với giới luật, Đạo Sanh sẽ bị đuổi.

Đạo Sanh phát nguyện trước đại chúng rằng: “Nếu những điều tôi nói chẳng hợp với nghĩa kinh, nguyện thân này sẽ bị ác báo. Nếu như thật khế hợp với tâm Phật, nguyện lúc bỏ thân này sẽ nằm theo thế sư tử mà hóa.” Nói xong, sư đi về phương Nam, đến núi Hổ Khâu xếp đá làm đồ chúng rồi tự giảng kinh này đến chỗ Xiển-đề có Phật tánh, sư hỏi: “Điều tôi nói có khế hợp với tâm Phật chăng?”. Các tảng đá đều gật đầu. Sau đó sư đi đến Khuông Sơn nghe tin Đàm Vô Sấm trở về Tây Trúc cốt tìm cho đủ các phẩm trong kinh Niết-bàn để dịch ra . Trong đó có nói hạng Xiển-đề đều có Phật tánh. Đạo Sanh nghe được vui mừng rồi thị tịch như lời thệ nguyện.

Lại nói về kinh Thủ Lăng Nghiêm. Thuở xưa có một tăng nhân dị thường xứ Tây Trúc bảo với ngài Trí Giả ở non Thiên Thai rằng : “ Bồ-tát Long Thắng từng ở nơi Quán Đảnh Bộ tụng ra 10 quyển kinh này, truyền bá khắp năm nước Thiên Trúc. Đây là đại ý pháp duy tâm, là ý nghĩa chưa nghe kinh nào nói, nên các Vua của năm nước Thiên Trúc bí mật giữ gìn, không cho truyền bá một cách tùy tiện.”

Ngài Trí Giả nghe nói hôm sớm hướng về phương Tây lễ bái, nguyện kinh này sớm đến Trung Hoa, tiếp tục huệ mạng chư Phật, nhưng rốt cuộc ngài chẳng kịp trông thấy. Trải qua trăm năm, đến đầu niên hiệu Thần Long (705) đời Đường thì kinh này mới đến Trung Hoa.

Lại nói về kinh Hoa nghiêm. Sau khi Phật diệt độ 600 năm mới có ngài Long Thọ xuống Long cung để xem ba loại bản kinh này. Bản thượng có số kệ bằng số bụi nhỏ của mười ba tam thiên đại thiên thê giới, số phẩm nhiều bằng số bụi nhỏ của một Tứ thiên hạ. Bản trung có 498.800 câu kệ, 1200 phẩm. Bản hạ gồm 100.000 câu kệ và 48 phẩm. Ngài Long Thọ cho rằng hai bản thượng và trung, người thế gian không sao trì tụng nổi nên ngài chỉ tụng bản hạ để lưu truyền mà thôi. Nay chỉ có 39 phẩm, 9 phẩm còn lại chưa đến Trung Hoa.

包括Bao quát: Gồm tóm.

陰暘Âm dương: Thuật ngữ Nho giáo.Vốn chỉ sự thuận hay ngược với ánh sáng mặt trời; hướng quay về mặt trời là dương, ngược lại với mặt trời là âm; sau đó mở rộng ra thành các hiện tượng đối lập lẫn nhau như nóng- lạnh, sáng- tối v.v…, cuối cùng trừu tượng hoá thành hai mặt đối lập lẫn nhau trong mọi sự vật.

包括陰暘 Bao quát âm dương: Khổng Tử cho rằng một âm một dương ấy là đạo. Ở đây bảo rằng Đạo có thể bao gồm cả âm dương, không chỉ bao trùm âm dương mà còn dung chứa cả muôn loài. Há chỉ âm dương mới gọi là Đạo? Đạo là cái không sao gọi tên được. Bởi vì đối với Đạo, không gì mà chẳng thông, không gì mà chẳng từ đó ra; giống như hư không, không nơi nào mà không có nó.

Nay trong khoảng trời đất, con người hay hoằng Đạo.Ví như có người bị rơi xuống giếng rồi bị đất đá lấp đầy, không có đường ra nên hoàn toàn tuyệt vọng. Việc này giống như bị đọa vào tam giới, chẳng biết có Đạo ấy nên sống rỗng chết uổng vậy. Nhưng có người mặc dù bị rơi vào trong giếng lại biết rằng ngoài đất đá ra còn có hư không nữa nên người ấy cố đào lỗ để chui ra. Hễ đào ñược một thước thì có một thước hư không, mà chẳng phải hư không từ đâu vào, nhiều thước cũng lại như thế. Lúc ra khỏi giếng rồi , thấy hư không vô biên không hề bị hao mất. Khi lấp đất đá đầy giếng, cũng chẳng thấy hư không xuất hiện. Cái hư không vô biên này nào có tăng thêm . Nên biết là đất đá ở trong hư không mà hư không cũng ở trong đất đá. Đất đá này chưa từng không , hư không chưa từng chẳng phải không. Đất đá dụ cho âm dương. Không dụ cho Đạo vậy. Tức là thế gian trời đất âm dương, tứ đại, ngũ uẩn, các trần lao hư dối thảy đều trong ấy, tất cả đều là đạo.

Nhưng cái thanh tịnh bản nhiên trong cái Không này biến hiện ra tất cả thế giới, căn thân, chủng tử tiếp nối không dứt đều bởi chúng sanh từ vô thủy lắm vô minh vọng tưởng điên đảo cuồng loạn. Cũng vì thế nên sinh ra các thứ như Phật pháp và thế pháp. Nếu hay phá vọng qui chân, chân cũng bất khả đắc, không cũng bất khả đắc , Phật pháp cũng bất khả đắc, huống là những thứ khác sao?

Vì lẽ đó Phật bảo A-nan rằng: Từ vô thủy, tâm tánh của ông cuồng loạn nên tri kiến vọng khởi. Vì phát vọng không dừng nên nhọc thấy có cảnh trần giống như mỏi mắt thì thấy có hoa đốm vô cớ nổi lên ở trong chỗ vắng lặng sáng suốt. Tất cả thế gian, núi sông đất đai, sanh tử Niết-bàn đều là tướng hoa đốm lăng xăng mỏi nhọc.

Lại, ngài Văn Thù nói: Do mê lầm nên vọng có hư không. Nương hư không mà lập thế giới. Lại nói: Hư không sanh trong đại giác như hòn bọt nổi trong biển cả. Các cõi nước hữu lậu nhiều như bụi nhỏ đều nương hư không mà sanh. Hòn bọt dù mất đi nhưng hư không vốn không, huống hồ là tam hữu.

Tam hữu là ba đời vậy. Phật còn nói: Nên biết hư không sanh trong tâm ông giống như áng mây trong bầu trời xanh bao la, huống là các thế giới ở trong hư không! Nếu một người trong bọn ông phát chân qui nguyên thì mười phương hư không này đều tiêu mất, như thế tại sao cõi nước trong hư không lại chẳng bị hao tổn?

Chỗ này cho rằng cái hư không đó chính là vô minh vọng tưởng của chúng sanh. Còn thế giới là các thứ trần lao hư vọng như tứ đại. Nhờ sức tỉnh giác mạnh mà tiêu trừ được các thứ hư vọng, trở về với chân tánh diệu đạo.

Tổ Đạt- ma chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật là chỉ cho mọi người thấy thấu suốt tự tâm bổn nguyên chân tánh.

Nhưng nếu như các bậc tông sư trong thiên hạ, có người cho rằng đó là lời dạy đập bể hư không, laät ñoå biển caû thì chaúng phải là nghĩa ở đây nói.

Đạo Nho nói một âm một dương là đạo, nghĩa là nói từ sau khi hữu (vạn vật) hình thành, mà hữu thì bắt đầu từ nơi vô. Trời đất vạn vật rõ ràng đều ở trong hư không, mọi người đều nhìn thấy, đây là hữu vậy. Cái hữu này sinh ra từ cái vô; sự bắt đầu của cái vô này không có cái đầu tiên và cuối cùng, cho nên gọi là vô cực, vô cực mà thái cực, thái cực động mà sinh ra dương. Động tột cùng rồi tĩnh, tĩnh mới sinh âm. Tĩnh tột cùng thì động sinh trở lại; một động một tĩnh cùng một cội nguồn, phân âm phân dương lưỡng nghi thành lập. Sau đó triển chuyển biến hoá đều do hai khí này giao cảm hoá sinh vạn vật, con người loài vật đâu từng khác biệt? Nếu như có thể quan sát đối với những gì từ vô thỉ về trước thì biết rõ đạo không lìa tại chỗ, siêu việt ba cõi có gì mà trở ngại?

Thế giới là gì? Thế là quá khứ, hiện tại, vị lai. Giới tức là mười phương.

Lão Tử nói : “Vô là tên gọi sự khởi đầu của trời đất, hữu là tên gọi mẹ của trời đất”. Lại nói : “Sự vật họp thành, tiên thiên địa sinh”. Lại nói : “Thường đức không biến đổi, trở về nơi vô cực”. Trang Tử nói : “Đạo ở trên thái cực mà không cao, ở dưới thái cực mà không sâu, tiên thiên địa sinh mà chẳng lâu, lớn hơn thượng cổ mà chẳng già”. Kinh Chủng Mộ Nhân Duyên ghi : “Trong cõi Diêm-phù-đề có nước Trung Hoa, ta sai Tam Thánh đến đó hoá đạo, dân chúng nhân từ, lễ nghĩa đàng hoàng”. Còn kinh Pháp Hạnh ghi : “Bồ tát Quang Tịnh còn gọi là Nguyệt Quang, còn gọi Nho Đồng, họ gọi là Khổng Tử; Bồ tát Ca Diếp họ gọi là Lão Tử. Bồ tát Nguyệt Quang còn gọi là Quang Tịnh, họ gọi là Nhan Hồi.” Ôi! Khổng Nhan Trang Lão há là người bình thường ư?

ĐẠI Ý:

Những phương tiện mà đức Phật dùng để giáo hoá chúng sanh là tư duy (thiền định) và diễn thuyết (thuyết pháp). Phương tiện này có khi thì rõ ràng sáng sủa, có khi thì ẩn mật chứa đựng sâu xa. Nội dung là phân tích nghĩa khônghữu của Tiểu thừa, Đại thừa.

Giáo pháp Đại thừa do đức Phật nói gồm tóm cả lý âm dương của Nho giáo.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét